Bình Chánh là một huyện ngoại thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Huyện Bình Chánh được biết đến là khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, dân cư đông đúc, nằm cửa ngõ chính phía tây và phía nam thành phố, với nhiều địa điểm tham quan, di tích lịch sử Cổng thông tin điện tử huyện Bình Chánh, là nơi cung cấp thông tin và dịch vụ hành chính công trực tuyến theo quy định Nghị định 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ Lịch sử. Bình Định đời nhà Tần, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương.. Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ngày nay huyện Bình Chánh được biết đến là khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, dân cư đông đúc, nằm cửa ngõ chính phía tây và phía nam thành phố, với nhiều địa điểm tham quan, di tích lịch sử. Huyện Bình Chánh trên thống kê có diện tích rộng và trải dài 25.000ha Khu di tích lịch sử Láng Le Bàu Cò. Địa chỉ: Láng Le Bàu Cò, Tân Nhựt, Bình Chánh. Địa danh Láng Le - Bàu Cò một trong những vùng nổi tiếng của xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh. Trong những năm đầu Nam Bộ kháng chiến, có nhiều trận đánh lớn nổi tiếng đã đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam. Lãnh đạo huyện Bình Chánh dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ anh hùng liệt sĩ tại Khu đi tích Lịch sử Rạch Già (xã Hưng Long) binhchanh. hochiminhcity.GOV.VN UBND Xã/Thị trấn Sau đó, đoàn bắt đầu di chuyển về Bình Chánh để tìm hiểu, tham quan vùng đất vẫn còn xa lạ với du lịch này. Điểm đến đầu tiên trong hành trình là khu di tích lịch sử Láng Le - Bàu Cò tại xã Tân Nhựt. rAhi. 38công, chống lại sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, như tham gia phong trào chốngsưu cao thuế nặng 1930 –1931, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ1940…Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập,nhân dân Bình Chánh đã cùng nhân dân cả nước hồ hởi đón chào sự độc lập củanước nhà, nhưng thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa, nhân dânBình Chánh lại hăng hái đứng lên chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp; dưới sựlãnh đạo của Đảng, trên mảnh đất Bình Chánh anh hùng đã có những trận đánhoanh liệt, gây cho địch nhiều thiệt lại rất to lớn, nặng nề và góp phần làm cho tinhthần binh lính địch hoang mang, dao Chánh nổi tiếng với địa danh căn cứ Vườn Thơm - Bà Vụ, trở thành nơidừng chân các lực lượng vũ trang và cán bộ lãnh đạo cao cấp của ta. Từ “Vành đaiđỏ” này, quân dân ta đã xiết chặt vòng vây tấn công vào trung tâm đầu não của địchtại Sài Gòn. Đặc biệt trong trận chống càn tại Láng Le – Bàu Cò ngày 15/04/1948,quân dân Bình Chánh đã tạo nên một chiến công hiển hách, chiến công này đượcghi vào lịch sử vũ trang của quân đội nhân dân Việt Nam .Đến năm 1957, huyện Bình Chánh được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyệnTrung Huyện; và đến năm 1960, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, Bình Chánh lạitách ra Nam, Bắc Bình Chánh; Nam gọi là Bình Chánh - Nhà Bè, Bắc nhập với TânBình gọi là Bình chiến công hiển hách trong công cuộc chống lại sự xâm lược của thựcdân Pháp luôn được kế thừa và phát huy trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ,Bình Chánh lại trở thành căn cứ, là chỗ dựa của các lực lượng cách mạng đứng chântại đây, đồng thời cũng xuất phát từ đây, lực lượng cách mạng đã tổ chức nhiều trậnđánh thọc sâu vào cơ quan đầu não của địch tại Sài Gòn, điển hình như cuộc tổngtiến công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968, buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiếnlược và dẫn đến hiệp định Paris, đặc biệt hơn nữa là đã góp phần vào thắng lợi củachiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 04 năm 1975, quyết định số phận củaquân thù, thắng lợi này đã giải phóng hoàn toàn đất nước và giành lại độc lập cho 39dân tộc. Với những đóng góp và chiến công vẻ vang trong hai cuộc kháng chiếnchống Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Huyện Bình Chánh vinh dự đượcĐảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Huyện Anh 1972, tên gọi huyện Bình Chánh được phục hồi trên cơ sở hợp nhấtNam, Bắc Bình Chánh. Đến tháng 12 năm 2003, do sự tăng dân số cơ học và để tạođiều kiện thuận lợi để phát triển, Huyện Bình Chánh thực hiện Nghị định130/2003/NĐ ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chiatách địa giới hành chánh. Ngày 02 tháng 12 năm 2003, Huyện Bình Chánh đã thựchiện xong việc chia tách. Trên cơ sở chia tách 4 xã – thị trấn Tân Tạo, Bình TrịĐông, Bình Hưng Hòa và Thị trấn An Lạc để thành lập 10 phường trực thuộc QuậnBình Tân. Sau lễ công bố thành lập Quận Bình Tân, Huyện Bình Chánh đã tổ chứclễ công bố thành lập Thị trấn Tân Túc. Sau khi tách Huyện, huyện Bình Chánh mớigặp nhiều khó khăn và nhiều vấn đề mới phát sinh do các công trình phúc lợi côngcộng, trung tâm hành chính, các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn đều tập trung vềquận Bình lại, trong thời chiến, quân dân Bình Chánh đã làm tròn nhiệm vụ, bámchắc xóm làng, giữ vững quê hương, mưu trí và sáng tạo tiêu hao và tiêu diệt nhiềusinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Đến thời bình, nhân dân Bình Chánhvẫn không ngừng chiến đấu, lao động và sáng tạo để góp phần xây dựng Huyệnngày một phát triển và đi lên, xứng đáng với danh hiệu cao quý do Đảng – Nhànước trao tặng “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”. Nguồn Lịch sử đấutranh cách mạng huyện Bình Chánh Đặc điểm tự nhiên Nguồn Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyệnBình Chánh 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020 Vị trí địa lý 40Bình Chánh là một trong năm huyện ngoại thành của TPHCM - mang tênBác Hồ vĩ đại. Bình Chánh nằm về phía Tây - Tây Nam của nội thành TPHCM,cách trung tâm thành phố 15km. Phía Bắc giáp huyện Hóc Môn, phía Nam giáphuyện Bến Lức và huyện Cần Giuộc của tỉnh Long An, phía Tây giáp huyện ĐứcHòa tỉnh Long An, phía Đông giáp quận Bình Tân, quận 7, quận 8 và huyện vị trí là cửa ngõ phía Tây vào nội thành TPHCM, nối liền với các trụcđường giao thông huyết mạch của phía Nam như đường quốc lộ 1A, các tuyếnđường liên tỉnh lộ 10 nối liền với khu công nghiệp Đức Hoà Long An; đườngNguyễn Văn Linh nối từ quốc lộ 1A đến khu công nghiệp Nhà Bè và khu chế xuấtTân Thuận quận 7, vượt sông Sài Gòn đến quận 2 và đi Đồng Nai; tỉnh lộ 50 nốihuyện Bình Chánh với các huyện Cần Giuộc, Cần Đước Long An nên Bình Chánhtrở thành cầu nối giao lưu kinh tế và giao thương đường bộ giữa TPHCM vớivùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các khucông nghiệp Đông Nam Bộ, ở vị thế này Bình Chánh đã và sẽ mở ra nhiều triểnvọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn huyện trong tương lai .Ngoài ra Huyện còn có hệ thống sông rạch và kênh mương như sông CầnGiuộc, sông Chợ Đệm, kênh Ngang, kênh Cầu An Hạ, rạch Tân Kiên, rạch BàHom…nối với sông Bến Lức và kênh Đôi - kênh Tẻ, đây là tuyến giao thông đườngthủy nối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Với lợi thế này nếu môi trườngđược cải thiện trong tương lai có thể khai thác để phát triển dịch vụ du lịch Bình Chánh có diện tích tự nhiên khoảng ha 252,5528km2, bao gồm 15 xã và 1 thị trấn. Đó là thị trấn Tân Túc và các xã Tân Kiên, TânNhựt, An Phú Tây, Tân Quý Tây, Hưng Long, Qui Đức, Bình Chánh, Lê Minh Xuân,Phạm Văn Hai, Bình Hưng, Bình Lợi, Đa Phước, Phong Phú, Vĩnh Lộc A, Vĩnh LộcB . 41Hình Bản đồ hành chánh huyện Bình Địa hìnhBình Chánh có dạng địa hình nghiêng và thấp dần theo hai hướng Tây Bắc–Đông Nam và Đông Bắc–Tây Nam, với độ cao giảm dần từ 3m đến 0,3m so vớimực nước biển. Có ba dạng địa hình chính như sauDạng đất gò có cao trình từ 2 - 3m, có nơi cao đến 4m. Thoát nước tốt, phùhợp trồng cây rau màu và có thể bố trí các cơ sở công nghiệp, phân bố tập trung ởcác xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc đất bằng thấp có độ cao xấp xỉ 2m, phân bố ở các xã Tân Quý Tây, AnPhú Tây, Bình Chánh, Tân Túc, Tân Kiên, Bình Hưng, Phong Phú, Đa Phước, QuyĐức, Hưng Long. Dạng địa hình này phù hợp với trồng lúa hai vụ, cây ăn trái, raumàu và nuôi trồng thủy sản. 42Dạng trũng thấp, đầm lầy, có cao độ từ 0,5m - 1m, thuộc các xã Tân Nhựt,Bình Lợi, Lê Minh Xuân, Phạm Văn Hai. Vùng này thoát nước kém, hiện nay trồnglúa là chính, hướng tới sẽ chuyển trồng cây trái và dứa Thổ nhưỡngĐất ở huyện Bình Chánh đại thể có các loại chính sauNhóm đất xám có diện tích khoảng ha, chiếm 14,7%. Phân bố ở cácxã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B. Có thành phần cơ giới là cát pha thịt nhẹ, kết cấu rờirạc, đất bạc màu do bị tác động của quá trình rửa trôi và xói mòn, nếu cải tạo tốt thìrất thích hợp cho việc trồng hoa đất phù sa có diện tích khoảng chiếm 23%. Phân bố ở cácxã Tân Quí Tây, An Phú Tây, Bình Chánh, Hưng Long, Qui Đức, Đa Phước, đất cóthành phần cơ giới là sét, có độ mùn cao, thích hợp với nhiều loại cây trồng như lúa,cây ăn trái, rau màu…Nhóm đất phèn có diện tích khoảng ha, chiếm 41,7%. Phần bố ởcác xã Tân Nhựt, Bình Lợi, Phạm Văn Hai, Lê Minh Xuân. Đây là vùng đất thấptrũng, bị nhiễm phèn mặn, nên chỉ thích hợp với nhiều loại cây chịu được phèn mặnnhư giống lúa chịu phèn, dứa, cây lâm nghiệp, thời gian tới nếu hệ thống thủy lợiHóc Môn – Bắc Bình Chánh hoàn chỉnh đưa được nước ngọt về để rửa phèn trongnội đồng thì có thể tăng thêm một vụ lúa hoặc chuyển sang trồng một số cây ăn ra còn có một số loại đất khác nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ, phần lớnphân bố ven sông Khí hậuNhiệt độ trung bình trong năm khoảng 260C. Cao nhất tháng tư là nhất vào tháng 12 là 240C. Lượng mưa trung bình từ 1300mm – 1700mm .Độ ẩm trung bình hàng năm khá cao. Mùa khô 79,5 % và khoảng 80% - 90% vàomùa mưa. Độ ẩm không khí thấp nhất trong ngày vào khoảng độ 13h 48 và caonhất từ lúc 1h – 7h 95% . Nguồn nướcCác sông, rạch trên địa bàn Bình Chánh đều chịu ảnh hưởng bởi chế độ thủytriều của ba hệ thống sông lớn Nhà Bè–Xoài Rạp, Vàm Cỏ Đông và sông Sài khô độ mặn xâm nhập vào sâu nội đồng, độ mặn khoảng 4‰, mùa mưa mựcnước cao nhất lên đến 1,1m, gây lụt cục bộ ở các vùng đất trũng của nước ngầm hai xã phía Bắc là Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B nguồnnước ngầm không bị nhiễm phèn, có thể khai thác nước phục vụ cho sản xuất nôngnghiệp, công nghiệp cũng như sinh hoạt, nhưng vào tháng nắng mực nước ngầmcũng tụt khá sâu trên 40m, các xã còn lại nguồn nước ngầm đều bị nhiễm phèn . Mạng lưới thủy vănHuyện có khoảng 10 sông rạch chính gồmBảng Các sông rạch chính của Huyện Bình ChánhTên sông , rạchSTTRộng m Sâu m 1Sông Cần Giuộc40 - 504-52Rạch Cây Khô30 - 404-53Rạch Cầu Già10 - 152-34Sông Chợ Đệm50 - 704-55Rạch Bầu Gốc25 - 303-46Rạch Nước Lên – Câu Suối40 - 454-57Kênh Ngang18 - 203-48Rạch Đôi14 - 152-39Rạch Sậy10 - 152-310Kênh C18 - 201-3 Nguồn Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH huyện Bình Chánh 2006 - 2010và tầm nhìn đến năm 2020 44Phần lớn sông rạch của Huyện nằm ở khu vực hạ lưu, nên nguồn nước bị ônhiễm bởi nước thải từ các khu công nghiệp của thành phố đổ về như nước đen từkênh Tàu Hủ, kênh Tân Hóa – Lò Gốm, kênh Đôi, rạch Nước Lên, rạch Cần Giuộc…gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp đặc biệt là nuôi trồng thủy sảncũng như môi trường sống của dân cư . Tài nguyên khoáng sảnTuy không có tài nguyên khoáng sản quí hiếm, nhưng Bình Chánh có loại đấtcó thể dùng làm nguyên liệu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng với trữ lượngtương đối phong phú. Theo tài liệu của đoàn địa chất thành phố sơ bộ đánh giá nhưsauLoại thân quặng 1 sét gạch ngói nằm trên địa bàn xã Vĩnh Lộc A và VĩnhLộc B, có diện tích khoảng 200ha, ước đoán trữ lượng khoảng 4 triệu thân quặng 2 cùng nằm trên địa bàn xã Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B, ướcđoán trữ lượng khoảng 20 triệu m3 .Loại thân quặng 3 sét gạch ngói nằm trên địa bàn xã Tân Túc, ước đoán trữlượng khoảng 10 triệu m3 .Ngoài ra còn có than bùn phân bố rải rác nằm dọc theo khu vực cầu An Hạ,nông trường Lê Minh Xuân…. Đặc điểm kinh tếNăm 2010, quy mô giá trị sản xuất các ngành kinh tế là 5 tỷ 384 triệu 671ngàn đồng theo giá cố định 1994, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân chung là21,03% vượt 5,03% so chỉ tiêu kế tế trên địa bàn huyện chủ yếu dựa vào hai khu vực công nghiệp vàthương mại – dịch vụ. Khu vực công nghiệp luôn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất,đến năm 2010, ngành công nghiệp chiếm tỉ trọng 74,46%, ngành thương mại dịchvụ 18,75%, ngành nông nghiệp 6,79% . 45Cơ cấu lao động nông nghiệp có sự chuyển dịch khá nhanh sang các ngànhcông nghiệp và thương mại dịch vụ, năm 2010 cơ cấu lao động làm việc trongngành nông nghiệp chiếm tỉ lệ 18,82% giảm 12,94%, ngành công nghiệp chiếm tỉlệ 43,57% tăng 4,87%, ngành dịch vụ chiếm tỉ lệ 37,61% tăng 8,07% so với lao động có việc làm bình quân giai đoạn 2004-2008 đạt giai đoạn từ năm 2006-2010 giải quyết việc làm mới cho laođộng. Năm 2006, tỷ lệ thất nghiệp là 5,7% đã kéo giảm xuống còn 5,4% vào năm2010 . Đặc điểm xã hộiChăm sóc y tế trên địa bàn Huyện trong thời gian qua đã đạt được nhữngthành tựu đáng kể, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao, công tácxã hội hóa về y tế đạt nhiều kết quả khả quan, công tác chăm sóc sức khỏe cộngđồng ngày càng phát triển sâu rộng, chất lượng chuyên môn ngày càng tăng, mạnglưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển. Ngành y tế luôn tập trung trênhai lĩnh vực là chăm sóc sức khỏe cộng đồng; nâng cao chất lượng khám chữa bệnhvà từng bước phát triển y tế chuyên sâu. Các chương trình chăm sóc sức khỏe banđầu thời gian qua hoạt động ổn định, đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe cho nhândân; số lượng bệnh nhân đến trạm y tế và bệnh viện Huyện ngày càng tăng bìnhquân lượt người/ngày. Số giường bệnh nội trú của bệnh viện từ 248 giườngvào năm 2006 tăng 358 giường vào năm 2010, đạt tỷ lệ 8,2 giường bệnh/ thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch 16,8 giường do chưa xây dựng bệnh viện đa khoamới; số bác sỹ trên dân tăng từ 2,59 bác sỹ vào năm 2006 lên 3,53 bác sỹvào năm 2010 chỉ tiêu kế hoạch là 5,4 bác sỹ / dân. Song song với hoạtđộng khám và chữa bệnh, ngành y tế tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu Quốcgia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, khốngchế có hiệu quả các dịch bệnh như SARS, cúm gia cầm lây sang người. Chươngtrình an toàn vệ sinh thực phẩm đã đề ra nhiều hoạt động, biện pháp và đạt nhiều 46thành quả nhất định, tạo được sự nhận thức trong người dân về an toàn thực sở vật chất ngành y tế không ngừng được mở rộng, trang thiết bị y tế được quantâm đầu tư đúng mức, 15/16 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về chuyên môn, đến giữanăm 2010 đã xây dựng và đầu tư trang thiết bị cho 09/16 trạm y tế theo tiêu chuẩnquốc gia quy động giáo dục Hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học phổ thông;đảm bảo 16/16 xã – thị trấn có Trung tâm học tập cộng đồng. Thời gian qua, do cósự tập trung nên ngành giáo dục đã hoạt động mạng lại nhiều hiệu quả, chất lượngđội ngũ giáo viên nâng lên rõ rệt. Hiệu suất đào tạo các bậc học mỗi năm đều lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở ổn định ở mức 99%. Cơ sở vậtchất ngành giáo dục từng bước được nâng cao và chuẩn hóa. Đến năm 2010, sốlượng trường lớp được xây dựng và nâng cấp mở rộng cho các cấp học đạt kết quảnhư sau Khối mầm non – mẫu giáo, từ năm 2006 đến cuối năm 2009 đã xây dựngđược 3 trường gồm Mẫu giáo Quỳnh Hương, xã Phạm Văn Hai; Mầm non HướngDương, xã Phong Phú; Mẫu giáo Hoa Hồng, xã Tân Quý Tây vốn ngoài ngânsách. Năm 2010 khởi công xây dưng 05 trường gồm Mẫu giáo Ngọc Lan, xã ĐaPhước vốn ngoài ngân sách; Mẫu giáo Hoa Lan, xã An Phú Tây vốn nước ngoàingân sách; Mẫu giáo xã Vĩnh Lộc B; Mẫu giáo Hoa Phượng, xã Vĩnh Lộc A; Mầmnon Hoa Thiên Lý, xã Vĩnh Lộc B vốn ngoài ngân sách .Khối tiểu học, từ năm 2006 đến cuối năm 2010 đã xây dựng mới 6 trườnggồm Tiểu học Bình Hưng, Tiểu học Phạm Văn Hai, Tiểu học Tân Quý Tây 3; Tiểuhọc Vĩnh Lộc B vốn ngoài ngân sách và Tiểu học Tân Kiên; thực hiện nâng cấp,mở rộng 4 trường Tiểu học Phạm Văn Hai, Tiểu học Vĩnh Lộc A, Tiểu học TânNhựt 6, Tiểu học Cầu Xáng. Khối trung học cơ sở, từ năm 2006 đến cuối năm 2009đã xây dựng mới 2 trường Trung học cơ sở Tân Nhựt, Trung học cơ sở Tân QuýTây; mở rộng 2 trường Trung học cơ sở Hưng Long, Trung học cơ sở Tân dựng mới Trường Trung học phổ thông Đa Phước và nâng cấp, mở rộngTrường Trung học phổ thông Lê Minh Xuân. So lộ trình thực hiện, tuy không đạtchỉ tiêu kế hoạch nhưng đây là nổ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, điều này đã 47giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội củaHuyện trong thời gian đói giảm nghèo Đến cuối năm 2008, tổng số hộ nghèo còn lại trongchương trình có mức thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm là 82 hộ, chiếm tỉ lệ0,11% so với tổng số hộ dân toàn huyện. Năm 2009, song song việc thực hiện giảmhộ nghèo, tăng hộ khá theo tiêu chí mới, huyện tập trung nâng thu nhập hộ nghèolên 6 triệu đồng/người/năm cho 82 hộ còn lại và đã hoàn thành kế hoạch giảm hộnghèo, tăng hộ khá giai đoạn Tác động của đô thị hoá đến phát triển kinh tế - xã hội huyện Ngành kinh Tăng trưởng các ngành kinh tếBảng Giá trị sản xuất các ngành kinh tế huyện Bình Chánh thời kỳ 2003 - 2010theo giá cố định năm 1994 Đơn vị Tỷ đồngNăm 2003Năm 2010Mức tăng BQ/ cấu % 100,00100,00Nông - lâm - thủy sản314,8414,272Cơ cấu % 15,177, cấu % 72,6266,70Thương mại - Dịch vụ253, cấu % 12,2125,60Tổng GTSX các ngành KTCông nghiệp - xây dựng12,43260,57140,66 Nguồn Phòng Kinh Tế huyện Bình Chánh 48Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế trên địa bàn Huyện năm 2010 tỷ đồng, tăng tỷ đồng so với năm 2003. Giai đoạn 2003–2010,bình quân mỗi năm tăng 413,66 triệu đồng. Đây là một tốc độ tăng trưởng khá caoso với các huyện khác trên địa bàn thành 2003, giá trị sản xuất của khu vực nông–lâm–thủy sản đạt 314,8 triệuđồng, đến năm 2010 đạt 414,272 triệu đồng. Tính chung giai đoạn 2003–2010, tỉtrọng nông–lâm–thủy sản trên địa bàn huyện có xu hướng giảm .Khu vực công nghiệp–xây dựng là khu vực lớn nhất, là động lực tăng trưởngchính của kinh tế trên địa bàn huyện. Giá trị sản xuất của khu vực này vào năm2003 đạt con số tỷ đồng đến năm 2010 tăng tỷ đồng, đưa giá trịsản xuất của khu vực công nghiệp–xây dựng lên tỷ đồng. Tính chung giaiđoạn 2003–2010, bình quân mỗi năm giá trị sản xuất của khu vực công nghiệp–xâydựng tăng 260,57 tỷ đồng. Với tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua, vì vậymà tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực công nghiệp–xây dựng trên địa bàn huyệncó xu hướng ngày càng tăng lên và tăng khá mạnh nhờ sự tăng trưởng mạnh củangành xây dựng do quá trình ĐTH khá nhanh trên địa bàn huyện Bình Chánh nhữngnăm qua .Khu vực dịch vụ trên địa bàn huyện Bình Chánh có giá trị sản xuất năm 2003là 253,4 triệu đồng, đến năm 2010 là tỷ đồng, bình quân mỗi năm giá trịsản xuất ngành thương mại–dịch vụ tăng 140,66 triệu đồng. Nguyên nhân tăng dogiao thông thuận lợi, có một số trục giao thông huyết mạch, tạo cửa ngõ hành langcho ngành phát triển, bên cạnh đó các doanh nghiệp phát triển nhiều thu hút côngnhân lao động, dân nhập cư các tỉnh đến cư trú ngày một tăng .Kinh tế trên địa bàn huyện chủ yếu dựa vào hai khu vực công nghiệp và Cơ cấu các ngành kinh tếBiểu đồ cho thấy, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành nông–lâm–thủy sản cótốc độ tăng trưởng thấp nhất và có xu hướng ngày càng giảm mạnh trong cơ cấu giá Bình Chánh là một huyện ngoại thành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Huyện Bình Chánh được biết đến là khu vực có tốc độ đô thị hóa cao, dân cư đông đúc, nằm ở cửa ngõ hành lang chính thức khu vực phía Tây, Tây Bắc và phía Nam thành phố, với nhiều địa điểm tham quan, di tích lịch sử,...Đây là huyện có dân số đông nhất cả nước và cũng là đơn vị hành chính cấp huyện có dân số đông thứ 4 cả nước, chỉ sau thành phố Biên Hòa, thành phố Thủ Đức và quận Bình Tân theo thống kê dân số năm 2019. Trước năm 1975, Bình Chánh là một quận trực thuộc tỉnh Gia Định. Sau năm 1975, quận Bình Chánh được đổi thành huyện Bình Chánh trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay. Khu Di Tích Dân Công Hỏa Tuyến Xã Vĩnh Lộc Mậu Thân 1968 Khu di tích Dân công Hỏa tuyến xã Vĩnh Lộc Để Giao hàng tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong đợt I và II tại TP HCM năm Mậu Thân 1968, được sự chỉ huy của phân khu II, cấp ủy xã Vĩnh Lộc, Chi bộ ấp Tân Hòa 1, Tân hòa 2, Thới Hòa cùng những cơ sở cách mạng nồng cốt đã hoạt động, tổ chức triển khai những đoàn dân công với hàng trăm nam nữ người trẻ tuổi tham gia đi ship hàng chiến đấu . Tổ chức dân công hỏa tuyến không yên cầu kỷ luật ngặt nghèo khắc nghiệt như bộ đội địa phương hay quân đội chính qui. Dân công hỏa tuyến Vĩnh Lộc là những nam, nữ người trẻ tuổi tham gia dân công với phần lớn là nữ ở lứa tuổi từ 16-20 tuổi. Đây là lứa tuổi hồn nhiên, yêu đời, khi được hoạt động đã sẵn sàng chuẩn bị gánh vác những trách nhiệm nặng nề không hề so đo, đo lường và thống kê, không ngại khó khăn, quyết tử. Nhiệm vụ hầu hết của dân công hỏa tuyến là ship hàng chiến đấu. Mỗi khi có trận đánh, những đoàn dân công luân phiên nhau ship hàng, mỗi đoàncó khoảng chừng 50 – 60 người, có du kích dẫn đường. Đoàn dân công Vĩnh Lộc với nữ chiếm đa phần, phục trang tự có của nữ dân công rất bình dị và ngăn nắp, mỗi khi đi làm trách nhiệm những chị thường mang khăn rằn, mặc áo bà ba màu đen hoặc màu xanh thẳm, quần săn quá gối, có mang theo võng để sử dụng khi nghỉ ngơi và khi thiết yếu làm võng cáng thương bệnh binh . Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15 tháng 6 năm 1968 nhằm mục đích ngày 20 tháng 5 năm 1968 âm lịch , cũng như mọi đêm, đêm ấy, đoàn dân công với gần 60 người được lệnh đưa thương bệnh binh vượt bưng Láng Sấu xuống Đức Hòa – Long An và tải đạn về Hồ Chí Minh. Khi đoàn dân công qua khỏi “ vùng trắng ” tới đồng bưng thì bị máy bay địch thả pháo sáng và phát hiện ra đội hình, chúng đã xả đạn như vãi trấu vào đoàn dân công trên đồng bưng trống trải. Sau trận oanh kích của địch, 35 người trong đoàn quyết tử, trong đó có 32 dân công 25 nữ, 7 nam, có 05 người đã lập mái ấm gia đình , 03 bộ đội nòng cốt ; 25 người sống sót, bị thương tật .Ngay đêm đó, mặc kệ gian truân và sự khủng bố niềm tin của địch, bà con ấp Tân Hòa 1, Tân Hòa 2 đã tiến ra đồng bưng cứu chữa những người bị thương và đưa xác con trẻ mình lên những chiếc xe bò về nhà chăm nom và tổ chức triển khai lễ an táng cho những người con đã quyết tử. Đêm 15/6/1968 là đêm đau thương, đêm không thể nào quên trước sự quyết tử rất lớn của người dân Vĩnh Lộc .Trong đại chiến không cân sức trước quân địch, bà con Vĩnh Lộc tận mắt chứng kiến nhiều trận đấu kiên cường, gan góc quyết tử của những chiến sỹ cách mạng. Những dân công hỏa tuyến là những người tay không, chân đất, giữa đồng bưng trống trải, không vũ khí, họ quyết tử trong tư thế ôm lấy nhau, truyền cho nhau sức mạnh, đất đồng bưng hiền hòa với những đìa nước, dứa dại, cỏ lau là nơi duy nhất nâng đỡ, che chở cho những con người quả cảm ấy . Sự quyết tử của những chiến sỹ dân công Vĩnh Lộc là điểm son sáng ngời về niềm tin yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc bản địa Nước Ta anh hùng. Khu di tích là bản hùng ca về hình ảnh những cô gái vùng ven TP HCM đi dân công Giao hàng mặt trận ; là nơi lưu giữ những tấm gương sáng ngời của người trẻ tuổi vùng ven Thành phố đã vượt gian nan, sẳn sàng quyết tử, vững tin vào thắng lợi ; là khu vực văn hóa truyền thống, nơi giáo dục truyền thống cuội nguồn cách mạng cho thế hệ trẻ . Bình Chánh là huyện nằm ở phía Tây – Tây Nam của nội Thành phố Hồ Chí Minh. Toạ độ địa lý của huyện là 1060 27’51 – 1060 42’ kinh Đông và 1020 27’38’’- 100 52’30’’ vĩ Bắc. Bình Chánh là một trong 5 huyện ngoại thành, có tổng diện tích tự nhiên là ha, chiếm 12% diện tích toàn Thành Phố. Dân số năm 2011 là người, mật độ dân số trung bình là người/km2. Với 15 xã và 01 thị trấn, xã có diện tích lớn nhất là xã Lê Minh Xuân ha, xã nhỏ nhất là An Phú Tây với 586,58 ha. * Địa giới hành chính của huyện như sau – Phía Bắc giáp huyện Hóc Môn. – Phía Đông giáp Q. Bình Tân, Quận 8, Quận 7 và huyện Nhà Bè. – Phía Nam giáp huyện Bến Lức và huyện Cần Giuộc tỉnh Long An .– Phía Tây giáp huyện Đức Hoà tỉnh Long An . Với vị trí là cửa ngõ phía Tây vào nội thành TP. Hồ Chí Minh, nối liền với các trục đường giao thông quan trọng như Quốc lộ 1A, đây là huyết mạch giao thông chính từ các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long đến các tỉnh vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Với các tuyến đường liên Tỉnh lộ 10 nối liền với khu công nghiệp Đức Hòa Long An; đường Nguyễn Văn Linh nối từ Quốc lộ 1A đến khu công nghiệp Nhà Bè và khu chế xuất Tân Thuận quận 7, vượt sông Sài Gòn đến quận 2 và đi Đồng Nai, Quốc lộ 50 nối huyện Bình Chánh với các huyện Cần Giuộc, Cần Đước Long An. Bình Chánh trở thành cầu nối giao lưu kinh tế, giao thương đường bộ giữa vùng đồng bằng Sông Cửu Long với vùng kinh tế miền Đông Nam Bộ và các khu công nghiệp trọng điểm. Dưới thời nhà Nguyễn, Bình Chánh thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Sau khi Pháp xâm lược và quản lý, đã đổi khác phương pháp quản lý và phân ranh hành chánh, theo đó thì Bình Chánh lại thuộc Q. Trung Quận về phía chính quyền sở tại cách mạng thì gọi là huyện Trung Huyện tỉnh Chợ Lớn. Đến năm 1957 huyện Bình Chánh được xây dựng trên cơ sở tách ra từ huyện Trung Huyện ; và đến năm 1960 do nhu yếu của cuộc kháng chiến Bình Chánh lại tách ra Nam, Bắc Bình Chánh ; Nam gọi là Bình Chánh – Nhà Bè, Bắc nhập với Tân Bình gọi là Bình Tân. Đến năm 1972, tên gọi huyện Bình Chánh được phục sinh trên cơ sở hợp nhất Nam, Bắc Bình Chánh. Đến tháng 12 năm 2003, do sự tăng dân số cơ học và để tạo điều kiện kèm theo thuận tiện để tăng trưởng, Huyện Bình Chánh tách ra xây dựng thêm Quận Bình Tân. Vậy lúc bấy giờ Huyện Bình Chánh còn lại 16 xã – thị trấn, với diện tích quy hoạnh là ha, và dân số năm 2009 là người. Cùng với quá trình hình thành và phát triển của Huyện, nhân dân Bình Chánh với truyền thống yêu nước, chống áp bức bất công, ngay từ những ngày đầu khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, nhân dân Bình Chánh đã đứng lên đấu tranh chống lại dưới ngọn cờ nghĩa khí của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định và các lực lượng kháng chiến khác. Đến khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 3/2/1930 , tại Bình Chánh có các ông Hồ Văn Long, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Trân …là những người đầu tiên giác ngộ cách mạng, đồng thời là cánh chim đầu đàn dẫn dắt nhân dân Bình Chánh làm cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bình Chánh hăng hái đứng lên đấu tranh chống lại sự áp bức bất công, chống lại sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, như tham gia phong trào chống sưu cao thuế nặng 1930 –1931 , tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 …Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập, nhân dân Bình Chánh đã cùng nhân dân cả nước hồ hởi đón chào sự độc lập của nước nhà, nhưng thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa, nhân dân Bình Chánh lại hăng hái đứng lên chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp; dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên mảnh đất Bình Chánh anh hùng đã có những trận đánh oanh liệt, gây cho địch nhiều thiệt lại rất to lớn, nặng nề và góp phần làm cho tinh thần binh lính địch hoang mang, dao động. Bình Chánh nổi tiếng với địa điểm địa thế căn cứ Vườn Thơm – Bà Vụ, trở thành nơi đứng chân những lực lượng vũ trang và cán bộ chỉ huy hạng sang của ta. Từ “ Vành đai đỏ ” này, quân dân ta đã xiết chặt vòng vây tiến công vào TT đầu não của địch tại TP HCM. Đặc biệt trong trận chống càn tại Láng Le – Bàu Cò ngày 15 / 04 / 1948, quân dân Bình Chánh đã tạo nên một chiến công hiển hách, chiến công này được ghi vào lịch sử vũ trang của quân đội nhân dân Nước Ta. Những chiến công hiển hách ấy luôn được thừa kế và phát huy trong tiến trình kháng chiến chống Mỹ, Bình Chánh trở thành địa thế căn cứ, là chỗ dựa của những lực lượng cách mạng đứng chân tại đây, đồng thời cũng xuất phát từ đây, lực lượng cách mạng đã tổ chức triển khai nhiều trận đánh thọc sâu vào cơ quan đầu não của địch tại Hồ Chí Minh, điển hình như cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968, đặt biệt là đã góp thêm phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 04 năm 1975, thắng lợi này đã giải phóng trọn vẹn quốc gia và giành lại độc lập cho dân tộc bản địa. Với những góp phần và chiến công vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Huyện Bình Chánh vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng thương hiệu Huyện Anh Hùng. Thực hiện Nghị định 130 / 2003 / NĐ ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng nhà nước về việc chia tách địa giới hành chánh, ngày 02 tháng 12 năm 2003 Huyện Bình Chánh đã thực thi xong việc chia tách. Trên cơ sở chia tách 4 xã – thị xã Tân Tạo, Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa và Thị trấn An Lạc để xây dựng 10 phường thường trực Quận Bình Tân. Sau lễ công bố xây dựng Quận Bình Tân, Huyện Bình Chánh đã tổ chức triển khai lễ công bố xây dựng Thị trấn Tân Túc, lúc bấy giờ huyện Bình Chánh còn lại 16 xã – thị trấn, trong đó có tổ, 80 ấp, thành phố, hộ với nhân khẩu. Tóm lại, sự hình thành và tăng trưởng của huyện Bình Chánh từ khi xây dựng cho đến nay, nhân dân Bình Chánh không ngừng chiến đấu, lao động và phát minh sáng tạo để góp thêm phần thiết kế xây dựng Huyện nhà ngày một tăng trưởng và đi lên, xứng danh với thương hiệu cao quý do Đảng – Nhà nước trao tặng “ Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân ”. Huyện Bình Chánh ở đâu? Huyện Bình Chánh là một quận/huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Huyện Bình Chánh có tổng cộng 16 xã/phường/thị xã phường của Huyện Bình ChánhCác xã phường thị trấn của Huyện Bình Chánh bao gồm Thị trấn Tân Túc, Xã Phạm Văn Hai, Xã Vĩnh Lộc A, Xã Vĩnh Lộc B, Xã Bình Lợi, Xã Lê Minh Xuân, Xã Tân Nhựt, Xã Tân Kiên, Xã Bình Hưng, Xã Phong Phú, Xã An Phú Tây, Xã Hưng Long, Xã Đa Phước, Xã Tân Quý Tây, Xã Bình Chánh, Xã Quy Đức, .Như vậy, các thắc mắc về Huyện Bình Chánh ở đâu đã được giải đáp trong bài viết này. Logo của Thành phố Hồ Chí Minh có thể chưa đúng Biển số xe Huyện Bình Chánh là 50 đến 59 và 41. Mã vùng điện thoại Huyện Bình Chánh là 028. Vị trí Huyện Bình Chánh trên bản đồ Thành phố Hồ Chí Minh Huyện Bình Chánh thuộc Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng Đông Nam Bộ có rất nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn và nổi tiếng đang chờ bạn khám phá với khung cảnh thiên nhiên cực kỳ tươi đẹp, các món ngon và địa điểm vui chơi và nét văn hóa đặc trưng ở nơi đây. Các loại hình du lịch phổ biến ở đây là chùa, tâm linh, di tích lịch sử, . Thuê xe du lịch, đặt tour tại Thành phố Hồ Chí Minh Đặt tour, thuê ô tô, xe máy Du Lịch đi các địa điểm du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh/thành lân cận với xe 4 chỗ, 7 chỗ, 16 chỗ, 29 chỗ, 45 chỗ, các loại xe Limousine đời mới có máy lạnh tốt, chi phí hợp lý, có đưa đón sân bay. 2 địa điểm du lịch tại Huyện Bình Chánh Du lịch Chùa Phật Cô Đơn – Bát Bửu Phật Đài tại Huyện Bình Chánh - Thành phố Hồ Chí Minh Chi tiết địa điểm này Xem các địa điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh Bát bửu Phật Đài hay thường được gọi là chùa Phật Cô Đơn, tọa lạc ở ấp 1, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Phật đài nằm cách trung tâm thành phố khoảng 30km về phía Tây Nam, trên một khu đất rộng trên 10 hecta, trước mặt là cánh đồng thơm dứa mênh mông, hai bên có rừng bạch đàn bao bọc và kênh dẫn nước từ sông Vàm Cỏ chảy qua tạo nên một khung cảnh yên tĩnh, thoáng mát. Du lịch Khu di tích lịch sử Láng Le Bàu Cò tại Huyện Bình Chánh - Thành phố Hồ Chí Minh Chi tiết địa điểm này Xem các địa điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh Địa danh Láng Le – Bàu Cò một trong những vùng nổi tiếng của xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh. Trong những năm đầu Nam Bộ kháng chiến, có nhiều trận đánh lớn nổi tiếng đã đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam. Trận Láng Le-Bàu Cò ngày 15-4-1948 ở vùng đất cửa ngõ Tây Nam Sài Gòn-Chợ Lớn, thuộc khu căn cứ Vườn Thơm là một trong những trận đánh vang dội, tô đậm nét son lịch sử huyện Bình Chánh cho đến ngày nay. Kết luận Trên đây là một số kiến thức và kinh nghiệm du lịch tại Huyện Bình Chánh - Thành phố Hồ Chí Minh. Vì mỗi người mỗi một cách nhìn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý đọc giả để chúng ta cùng chia sẻ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm hơn. Trân trọng cảm ơn! Lê Minh Xuân là một xã của huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Thông tin tổng quan VùngĐông Nam Bộ Thành lập1977 Diện tích35,37 km² Dân số người 1999 Mật độ394 người/km² 1999 Mã hành chính Xã được thành lập từ năm 1977, sau khi hình thành nông trường quốc doanh Lê Minh Xuân do đất đai được tách ra từ 3 xã Tân Tạo, Tân Nhựt, Bình Lợi thuộc huyện Bình Chánh. Xã được đặt tên theo Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Minh Xuân. Địa giới hành chính Xã Lê Minh Xuân có vị trí địa lý Phía đông giáp quận Bình Tân và xã Tân Nhựt Phía tây và phía nam giáp xã Bình Lợi Phía bắc giáp xã Phạm Văn Hai. Bản đồ vị trí xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh Bản đồ xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh Bản đồ giao thông xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh. Open Street Map Xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh nhìn từ vệ tinh Bản đồ vệ tinh xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh. Satelite Map Có thể bạn quan tâm Huyện Bình Chánh có 16 đơn vị hành chính cấp phường xã. Trong đó bao gồm 1 thị trấn, 15 xã. Thị trấn Tân Túc huyện lỵ Xã An Phú Tây Xã Bình Chánh Xã Bình Hưng Xã Bình Lợi Xã Đa Phước Xã Hưng Long Xã Lê Minh Xuân Xã Phạm Văn Hai Xã Phong Phú Xã Quy Đức Xã Tân Kiên Xã Tân Nhựt Xã Tân Quý Tây Xã Vĩnh Lộc A Xã Vĩnh Lộc B ☛ Có thể bạn quan tâm Danh sách phường xã Hồ Chí Minh Xem thêm bản đồ thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố, quận, huyện Thành phố Thủ ĐứcQuận 1Quận 3Quận 4Quận 5Quận 6Quận 7Quận 8Quận 10Quận 11Quận 12Quận Bình TânQuận Bình ThạnhQuận Gò VấpQuận Phú NhuậnQuận Tân BìnhQuận Tân PhúHuyện Bình ChánhHuyện Cần GiờHuyện Củ ChiHuyện Hóc MônHuyện Nhà BèQuận 2 cũQuận 9 cũQuận Thủ Đức cũ 🔴 MẸO - Tìm kiếm nhanh quận huyện xã phường cần xem bản đồ Danh sách xã phường Việt Nam Danh sách quận huyện Việt Nam Xem thêm bản đồ các tỉnh thành Việt Nam Hà Nội Hồ Chí Minh Đà Nẵng Hải Phòng Cần Thơ An Giang Bà Rịa – Vũng Tàu Bạc Liêu Bắc Kạn Bắc Giang Bắc Ninh Bến Tre Bình Dương Bình Định Bình Phước Bình Thuận Cà Mau Cao Bằng Đắk Lắk Đắk Nông Điện Biên Đồng Nai Đồng Tháp Gia Lai Hà Giang Hà Nam Hà Tĩnh Hải Dương Hòa Bình Hậu Giang Hưng Yên Khánh Hòa Kiên Giang Kon Tum Lai Châu Lào Cai Lạng Sơn Lâm Đồng Long An Nam Định Nghệ An Ninh Bình Ninh Thuận Phú Thọ Phú Yên Quảng Bình Quảng Nam Quảng Ngãi Quảng Ninh Quảng Trị Sóc Trăng Sơn La Tây Ninh Thái Bình Thái Nguyên Thanh Hóa Thừa Thiên – Huế Tiền Giang Trà Vinh Tuyên Quang Vĩnh Long Vĩnh Phúc Yên Bái Bài viết mới

lịch sử huyện bình chánh