Chính sách thống trị của nhà Thanh đã gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc là A. làm cho chế độ phong kiến Trung Quốc ngày càng trì trệ B. làm cho các mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gia tăng C. gây nên nhiều cuộc xung đột kịch liệt với thương nhân châu Âu D. tạo điều kiện cho tư bản phương
Cùng tìm hiểu câu trả lời qua bài viết dưới đây của Allavida.org. 1. Chính sách thống trị của nhà Thanh đã gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc là. A. Chính sách thống trị ngoại tộc, làm cho chế độ phong kiến Trung Quốc ngày càng trì trệ
A. Th ực hiện chính sách bế quan tỏa cảng. B. Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân phương Tây. C. Thực hiện chính sách mở cửa cho thương nhân vào buôn bán. D. Cải cách đất nước theo chính sách của Minh Trị (Nhật Bản).
Chính sách thống trị của nhà Thanh đã gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc là A. Chính sách thống trị ngoại tộc, làm cho chế độ phong kiến Trung Quốc ngày càng trì trệ B. Chính sách áp bức dân tộc, làm cho các mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng C. Chính sách “bế quan tỏa cảng”gây nên nhiều
CHÍNH SÁCH GIÁ ĐIỆN CHO SINH VIÊN, NGƯỜI LAO ĐỘNG THUÊ NHÀ (Căn cứ Khoản 5 Điều 1 Thông tư số 25/2018/TT-BCT ngày 12/9/2018 của Bộ Công Thương) Thứ Năm, ngày 20/10/2022
Đại diện chủ đầu tư An Gia cho biết, chính sách cam kết thuê lại với một số sản phẩm thuộc khu phức hợp Westgate đang hấp dẫn khách mua ở thực lẫn nhà đầu tư. Chính sách áp dụng cho dòng căn hộ 3 phòng ngủ, shophouse, villa. Thời gian cho thuê kéo dài từ 12 đến 18 tháng
Đề tài số 8: Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Bộ môn: Tiền tệ - Ngân hàng Lớp: TCH303.2 Thành viên nhóm 37: Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Lan Hà Nội, 12 LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com LUAN VAN CHAT LUONG download : add luanvanchat@agmail.com
xTwax. Nguồn Shi Zhihong, “China's overseas trade policy and its historical results 1522–1840”, Intra–Asian Trade and the World Market. Nhà xuất bản Routledge. Đầu thế kỷ 15, người châu Âu bắt đầu thám hiểm hàng hải để tìm kiếm các tuyến đường mới đến phương Đông, nơi được cho là đầy ắp vàng bạc và hương liệu. Vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16, nhiều nhà hàng hải vĩ đại đã khám phá ra các tuyến đường biển nối châu Âu với châu Á và châu Mỹ, hoàn thành chuyến đi biển vòng quanh thế giới. Từ đó trở đi, người châu Âu bành trướng sức mạnh và tầm ảnh hưởng khắp toàn cầu, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên khai thác thuộc địa. Thời đại khám phá và hoạt động mở rộng thuộc địa theo sau mang tới những tiến bộ xã hội và kinh tế vượt bậc ở Tây Âu, đẩy nhanh tốc độ lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản tại đây. Chúng cũng thay đổi luôn bản đồ chính trị thế giới. Những quốc gia nhỏ bé “ngoài rìa” nền văn minh châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh giờ đây nối tiếp nhau trở thành những siêu cường có sức mạnh hải quân vượt trội và sở hữu lãnh thổ hải ngoại bao la. Sự bành trướng trên toàn thế giới của chủ nghĩa tư bản phương Tây trở thành xu hướng chính của lịch sử hiện đại và đã thực sự định hình lại thế giới. Trước xu hướng mạnh mẽ này, nhiều nền văn minh ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ đã suy tàn và thậm chí biến mất. Trung Quốc cũng chẳng thể nào cưỡng lại dòng chảy lịch sử. Nền văn minh Hoa Hạ, một trong những nền văn minh cổ xưa và huy hoàng nhất Trái Đất, bắt đầu đánh mất phong độ từ thế kỷ 16. Đúng là Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển, nhưng nó đã dần tụt hậu so với phương Tây về kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học, kỹ thuật và nhiều mặt khác. Trung Quốc rốt cuộc bị phương Tây đè bẹp trong Chiến tranh thuốc phiện 1840 – 42 và bước vào thời kỳ tăm tối mà người dân nước họ gọi là “Bách niên quốc sỉ”. Vậy thì tại sao chuyện này lại xảy ra? Làm thế nào một quốc gia vĩ đại lại dần suy tàn và bị đánh bại? Để trả lời, ta cần phải nghiên cứu trên nhiều góc độ chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng và văn hóa, khoa học và công nghệ, mẫu thuẫn nội tại và đối ngoại, Tuy nhiên, chương này tập trung vào lập luận cho rằng lý do chính khiến Trung Quốc gục ngã là vì chính sách đối ngoại hạn chế thời nhà Minh và đầu thời nhà Thanh. Chính vì lẽ đó, Trung Quốc đã tự tay vứt đi cơ hội cạnh tranh với phương Tây trong những bước tiến quan trọng nhất của lịch sử hiện đại, vốn đã bắt đầu từ những chuyến khám phá vĩ đại. Nhà Minh khởi xướng chính sách cấm biển và cấm chỉ người dân ra nước ngoài vào khoảng đầu và giữa triều đại. Trong những năm này, hình thức ngoại thương hợp pháp duy nhất là “thương mại triều cống”. Chỉ những quốc gia có gửi tàu triều cống tới triều đình và được ghi danh trong Dai Ming Huidian mới được phép giao thương với Trung Quốc. Tàu triều cống chỉ có thể đến trong những thời điểm cụ thể nhưng được phép chở bán một số hàng hóa nằm ngoài danh mục cống phẩm. Mọi tàu neo đậu tại các cảng chỉ định đều phải nộp “kanhe” – một loại giấy phép đặc biệt do chính quyền nhà Minh cấp phát – để kiểm tra. Chính quyền nhà Minh mở ba cảng biển quốc tế Ninh Ba ở tỉnh Triết Giang, Tuyền Châu ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Châu ở tỉnh Quảng Đông. Một cơ quan đặc biệt gọi là “Shibo Tiju Si” được thành lập ở ba cảng để tiếp nhận sứ thần và quản lý giao thương nước ngoài. Tại kinh đô, Nam Kinh 1368 – 1421 hoặc Bắc Kinh 1421 – 1644, Huitong Guan trực thuộc Lễ bộ, có trách nhiệm tương tự Shibo Tiju Si. Tất cả hoạt động kinh doanh của người nước ngoài với người Trung Quốc tại các cảng hoặc tại Huitong Guan đều được thực hiện dưới sự giám sát của quan chức triều đình. Chính quyền nhà Minh kiểm soát hoàn toàn thương mại triều cống và luôn xem nó như một phần chiến lược ngoại giao chứ không chỉ là thương mại đơn thuần. Đầu thời nhà Minh, các hoàng đế đánh giá cao lợi ích chính trị hơn lợi ích kinh tế mà thương mại triều cống đem lại. Họ muốn đón tiếp nhiều sứ thần nước ngoài để thiết lập danh tiếng và uy tín cho Trung Quốc như một quốc gia vĩ đại. Theo truyền thống, sự xuất hiện của tàu triều cống là một vinh dự với Trung Quốc và là minh chứng cho sự phồn vinh của nước này. Để khuyến khích thêm nhiều quốc gia gửi tàu triều cống, các hoàng đế đầu thời nhà Minh luôn trọng đãi mọi tàu triều cống. Họ không chỉ đổi hàng Trung Quốc xa xỉ lấy cống phẩm mà còn mua hầu hết hàng hóa trên tàu với giá cao hơn nhiều giá trị thực. Bên cạnh đó, họ luôn đưa ra những mệnh lệnh đặc biệt, cho phép hàng hóa còn sót lại trên tàu được bán tự do trên thị trường miễn thuế, mặc dù theo luật thành văn, mọi hàng hóa trên tàu triều cống đều bị đánh một mức thuế nhất định. Bị hấp dẫn bởi hoạt động thương mại sinh lời nhờ những chính sách ưu đãi kể trên, nhiều quốc gia Đông Dương và Nam Dương lũ lượt gửi tàu triều cống tới Trung Quốc vào đầu thời nhà Minh. Dưới thời Hồng Vũ Đế trị. 1369 – 98, hơn một chục quốc gia đã được triều đình điền tên trong danh sách triều cống. Sau những chuyến viễn dương tới Tây Dương của Trịnh Hòa giữa những năm Vĩnh Lạc 1403 – 24 và Tuyên Đức 1426 – 35, mạng lưới ngoại thương của nhà Minh mớ rộng tới vùng ngoại vi Ấn Độ Dương, bao gồm cả Tây Á và bờ biển phía đông châu Phi. Thời điểm này, thương mại triều cống đạt đỉnh cao khi có đến hơn 30 quốc gia gửi tàu triều cống tới Trung Quốc. Vì tập trung vào lợi ích chính trị, nhà Minh thu được rất ít lợi ích kinh tế từ thương mại triều cống. Trên thực tế, chính quyền nhà Minh chi tiêu cho thương mại triều cống nhiều hơn khoản lợi nhuận thu được từ nó. Chính quyền nhà Minh tốn rất nhiều tiền để lo nơi ăn, chốn ở cho các sứ thần và đoàn tùy tùng đi theo họ. Việc hộ tống sứ thần từ cảng biển tới kinh đô, tặng quà cho sứ thần và quốc chủ của họ cũng vô cùng tốn kém. Sau những chuyến viễn dương của Trịnh Hòa, mật độ chuyến viếng thăm và quy mô đoàn tùy tùng ngày một tăng của các đoàn tàu triều cống khiến chính quyền nhà Minh cảm thấy khó mà giao dịch hết với tất cả, và luôn đau đầu với khoản chi phí tiếp nhận sứ thần. Vì vậy, quy mô và phạm vi của thương mại triều cống cần phải được giảm bớt. Triều đình nhà Minh bắt đầu ban hành giấy phép triều cống đặc biệt “kanhe” riêng cho từng quốc gia và hạn chế số lượng chuyến viếng thăm, số lượng tàu triều cống và nhân sự. Để quản lý giao thương dễ dàng hơn, họ thậm chí còn chỉ định tuyến đường mà tàu triều cống phải đi và cảng nhập cảnh. Chẳng hạn, theo Dai Ming Huidian, Nhật Bản triều cống mười năm một lần, đoàn triều cống không được vượt quá ba tàu và 300 nhân sự, phải nhập cảnh tại cảng Ninh Ba. Lưu Cầu triều cống hai năm một lần, đoàn triều cống không được vượt quá 300 nhân sự, nhập cảnh tại cảng Quảng Châu. Chiêm Thành, Chân Lập, Xiêm La và các quốc gia Tây Dương ba năm triều cống một lần, đoàn triều cống nhập cảnh tại Quảng Châu, Việc đặt giới hạn cho các tàu triều cống chỉ ra rằng chính quyền nhà Minh đã quá mệt mỏi với việc tiếp nhận tàu triều cống nước ngoài. Giữa thời nhà Minh, nạn Oa khấu – cướp biển Nhật Bản – khiến chính sách ngoại thương của Trung Quốc ngày một hướng nội hơn. Điều này dẫn tới việc Gia Tĩnh Đế trị. 1522 – 66 ban bố một lệnh cấm biển toàn diện. Oa khấu hoành hành ở vùng duyên hải Trung Quốc từ tận giữa thế kỷ 14, nhưng chỉ thực sự trở thành mối đe dọa nghiêm trọng vào cuối thế kỷ 15, khi Nhật Bản bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Thời điểm đó, do tình trạng nội chiến và hỗn loạn triền miên khắp Nhật Bản, đông đảo chiến binh bất mãn chọn cách giong buồm ra khơi. Họ trở thành thương nhân hoặc cướp biển, thường xuyên quấy phá bờ biển đông nam Trung Quốc. Xung đột giữa các phái đoàn triều cống từ các thân vương quốc Nhật Bản cũng thường mang lại tai họa cho Trung Quốc. Năm 1523, một cuộc tranh cãi nảy lửa về chính sách đối ngoại đã nổ ra trong triều đình nhà Minh sau một vụ “tranh giành quyền triều cống” giữa hai phái đoàn Nhật Bản. Kết quả là Gia Tĩnh Đế quyết định giải tán tất cả Shibo Tiju Si tại các cảng quốc tế và nâng cấp độ cấm biển nghiêm ngặt chẳng những không thể chặn đứng Oa khấu mà còn cản trở sự phát triển của hoạt động ngoại thương bình thường ở Trung Quốc. Do không có đường cho người nước ngoài và thương nhân Trung Quốc buôn bán, nạn buôn lậu lan tràn khắp bờ biển đông nam. Cường hào địa phương hay thương nhân giàu có, đôi khi được tiếp tay bởi quan chức, là những đầu tàu buôn lậu. Những thương nhân hàng hải Trung Quốc bá đạo này, hầu hết được vũ trang, cũng kiêm luôn nghề cướp biển và thường cấu kết với người Nhật hoặc tự nhận mình là người Nhật để giết chóc và cướp bóc. Chính quyền nhà Minh tuy kiểm soát chặt ra vào cảng biển nhưng lại không gia cố lực lượng quân sự phòng thủ trên biển và ven bờ biển. Suốt những năm Gia Tĩnh, cả Oa khấu lẫn “ngụy Oa khấu” hoành hành khắp vùng ven biển đông nam Trung Quốc, cản trở đáng kể sự phát triển của công nghiệp và thương mại nơi cấm biển còn làm giảm nguồn thu của chính quyền nhà Minh. Nó mang tới nhiều khó khăn tài chính cho Chiết Giang và Phúc Kiến hơn cả, vì phần lớn chi tiêu địa phương của hai tỉnh này đều đến từ việc đánh thuế ngoại thương. Đã có nhiều yêu cầu bãi bỏ lệnh cấm biển dưới thời Gia Tĩnh Đế, các quan chức Triết Giang và Phúc Kiến tranh luận rất sôi nổi về chính sách đối ngoại tại triều đình. Ngay khi giải quyết được nan đề Oa khấu, chính quyền nhà Minh bắt đầu thay đổi chính sách đối ngoại từ thời Long Khánh Đế trị. 1567 – 72. Sau năm 1567, thương nhân Trung Quốc được phép buôn bán với tất cả thương nhân từ Đông Dương và Tây Dương, trừ Nhật Bản. Tàu nước ngoài, cũng trừ Nhật Bản, được chào đón đến Trung Quốc. Năm 1599, Shibo Tiju Si được tái thành lập tại Quảng Châu và Ninh Ba. Vậy là lệnh cấm biển tồn tại từ đầu thời nhà Minh cuối cùng đã được bãi bỏ. Thế nhưng, tín hiệu tích cực này đến quá muộn khi chỉ còn vài thập kỷ nữa là nhà Minh diệt cửa biển rộng mở chắc chắn rất hữu ích trong việc thúc đẩy hoạt động ngoại thương Trung Quốc. Nó khuyến khích thường dân Trung Quốc xuất ngoại để buôn bán với người nước ngoài. Thường dân vẫn thường lén lút xuất ngoại thời nhà Minh ngay cả trong những năm tháng cấm biển ngặt nghèo nhất. Cùng với sự phát triển của thủ công nghiệp và thương mại, thương mại tư nhân nhanh chóng khuếch trương từ giữa thời nhà Minh dưới hình thức buôn lậu quy mô lớn. Sau khi lệnh cấm biển được bãi bỏ, thương mại tư nhân nở rộ hơn bao giờ hết. Nguyệt Cảng, một thành phố thương mại sầm uất ở phủ Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, là điểm khởi hành hàng đầu mà thường dân Trung Quốc lựa chọn khi có ý định ra nước ngoài. Theo một tác giả sống vào cuối thể kỷ 16, những người xuất ngoại hàng năm đem lại cho Nguyệt Cảng vài trăm ngàn lạng tăng cường quản lý ngoại thương, chính quyền nhà Minh thành lập huyện Hà Trừng tại Nguyệt Cảng và giao cho một cơ quan tên là Du Xiang Guan trách nhiệm thu thuế. Chính quyền huyện Hà Trừng quy định rằng mọi tàu đi nước ngoài đều phải trả một khoản phí cố định để đổi lấy thẻ thông hành đặc biệt chuan yin. Có hạn ngạch số lượng thẻ chuan yin được phép cấp mỗi năm ban đầu là 88, về sau là 100 rồi 210. Tàu đi biển bị giới hạn kích thước và không được phép chở vũ khí hoặc hàng lậu. Tàu chỉ được đến những địa điểm đã được chủ tàu đăng ký trước và phải trở về sau một thời hạn nhất định. Ngoài phí thông hành, chính quyền còn thu thêm ba loại thế khi tàu hồi bến shui xiang theo kích cỡ tàu, jiazeng xiang cho hàng nhập khẩu, và jiazeng xiang đặc biệt với những tàu trở về từ Luzon, thường chỉ mang về đô la bạc phép người dân ra nước ngoài là một cải cách sáng suốt của nhà Minh. Nhưng nó đến quá muộn để mang lại lợi ích cho Trung Quốc. Với sự leo thang căng thẳng giữa quần chúng nhân dân và giai cấp thống trị, hoàng triều thời điểm đó đang trên con đường suy tàn và không còn đủ sức lực cũng như ý chí để theo đuổi một chính sách hải ngoại táo bạo. Mở rộng cửa biển không phải là vì hoàng triều muốn khuyến khích thường dân mở mang thị trường nước ngoài, mà là vì họ không thể tiếp tục cấm cản thường dân xuất ngoại. Sự phát triển thương mại tư nhân cuối thời nhà Minh hoàn toàn nhờ công của tầng lớp bình dân. Tất cả những gì chính quyền làm với thương mại tư nhân là kiểm soát nó hết mức và tích cực thu lại, chính sách ngoại thương của Trung Quốc cuối thời nhà Minh vẫn hết sức bảo thủ. Hoàng triều luôn quan tâm tới sự an toàn của bản thân nó hơn là lợi ích kinh tế có thể thu được từ thương mại. Thương mại triều cống, hình thức ngoại thương duy nhất được chấp thuận vào đầu và giữa thời nhà Minh được coi như một biện pháp ngoại giao nhằm tạo uy tín cho hoàng triều hơn là một phương tiện kiếm thêm nguồn thu từ giao thương. Cuối thời nhà Minh, hạn chế cảng biển được nới lỏng, tàu ngoại quốc được tự do ra vào và thường dân có cơ hội xuất ngoại. Tuy nhiên, hình thái thương mại tự do như ở phương Tây vẫn không thể hình thành. Thương nhân ngoại quốc phải tiến hành buôn bán thông qua người đại diện do chính quyền chỉ định, việc giao thương trực tiếp với thường dân Trung Quốc bị nghiêm cấm. Người dân không được khuyến khích ra nước ngoài để mở thị trường hải ngoại Trung Quốc, thực tế, họ được phép ra nước ngoài vì chính quyền không thể ngăn cấm. Một chính sách thúc đẩy ngoại thương như ở phương Tây chưa từng xuất hiện ở Trung Quốc cho tới tận những năm cuối thời nhà rộng mở trong quan hệ thương mại giữa Trung Quốc với nước ngoài vào cuối thời nhà Minh không tồn tại được lâu. Nó gián đoạn ngay trong những năm đầu thời nhà Thanh, triều đại kế tục nhà Minh cai trị Trung Quốc từ năm 1644. Trong những thập kỷ cai trị đầu tiên, triều đình nhà Thanh liên tục phải đàn áp các lực lượng phản Thanh người Hán đấu tranh khôi phục triều đại cũ. Lực lượng người Hán chủ yếu tập hợp ở vùng duyên hải đông nam và luôn dễ dàng đào thoát tới các căn cứ vững chắc trên một vài hòn đảo ngoài khơi. Vì vậy, không lâu sau khi chiếm được Bắc Kinh vào năm 1644, nhà Thanh đã lập tức ban bố lệnh cấm biển. Tuy nhiên, lệnh cấm biển chỉ thực sự hiệu quả khi được xiết chặt vào năm 1661. Đó là khi quân Mãn Thanh đánh bại Trịnh Thành Công, thủ lĩnh phản Thanh khét tiếng nhất vùng đông nam, buộc ông này cùng toàn bộ lực lượng tháo chạy ra biển. Triều đình nhà Thanh ép tất cả dân ven biển phá hết tài sản và di tản sâu vào trong đất liền hơn chục cây số, chỉ để lại cho lực lượng phản Thanh ngoài khơi một bờ biển trơ trọi. Lệnh cấm biển mới được thực hiện triệt để đến mức không có bất cứ tàu thuyền nào được phép ra khơi hay cập bến Trung Quốc đại lục. Thế là, ngoại trừ chút giao thương hạn chế ở Macao, nhà Thanh đã cho dừng tất cả hoạt động thương mại nước ngoài. Chính quyền nhà Thanh dỡ bỏ lệnh cấm biển và cho phép người dân xuất ngoại vào năm 1684, một năm sau khi chế độ của dòng họ Trịnh tại Đài Loan đầu hàng quân Mãn Thanh. Năm 1685, bốn hải quan được thành lập ở Quảng Châu tỉnh Quảng Đông, Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến, Ninh Ba tỉnh Triết Giang và Tùng Giang tỉnh Giang Tổ để giao thương với nước ngoài. Như vậy, quan hệ thương mại với nước ngoài cuối cùng cũng trở lại bình thường sau 40 năm. Nửa sau thời Khang Hi 1662 – 1722, tàu buôn nước ngoài được phép buôn bán với người Trung Quốc tại tất cả cảng biển quy định, và hoạt động hải ngoại của thương nhân Trung Quốc cũng phát triển nhanh chóng, bất chấp những hạn chế xuất ngoại nhất định. Theo một số ghi chép lịch sử, thương nhân và dân di cư Trung Quốc xuất hiện hầu khắp các nước Nam Dương và Đông Dương. Người Trung Quốc sống ở Đông Nam Á, chủ yếu đến từ vùng duyên hải đông nam, đông hơn nhiều so với thời nhà Minh. Riêng mình Jakarta đã có tới hàng trăm ngàn người Trung Quốc. Tuy nhiên, tình hình tích cực này cũng chẳng kéo dài lâu. Từ những năm cuối thời Khang Hi, chính sách hải ngoại của nhà Thanh lại bắt đầu trở nên hướng nội. Điều này là do mối lo ngại sâu xa rằng các lực lượng phản Thanh trong nước, vẫn hoạt động ngay cả khi người Mãn đã thống nhất đất nước, sẽ cấu kết với người Hán ở hải ngoại để lật đổ nhà Thanh. Khang Hi và một số quan chức cảm thấy không yên tâm khi rất nhiều người Hán ra nước ngoài sinh sống và định cư. Ông được cho là đã phái mật thám tới Luzon điều tra, một năm sau khi nghe tin có hậu duệ hoàng tộc nhà Minh đang sống tại đây. Dù cuộc điều tra chẳng đi đến đâu, lo lắng vẫn bủa vây hoàng đế. Vì vậy, vào năm 1717, Khang Hi ban bố lệnh cấm tàu thuyền đến Nam Dương. Cùng thời điểm, triều đình nhà Thanh hạn chế tàu thuyền ra khơi và tăng cường kiểm tra các cảng biển. Tất cả người Trung Quốc đang định cư ở nước ngoài được lệnh phải trở về đại lục trong vòng ba năm, ai dám di cư lần nữa sẽ bị dẫn độ và xử tử. Trước áp lực từ triều đình và quần chúng, lệnh cấm tàu thuyền đến Nam Dương được dỡ bỏ vào năm 1727. Trong khi đó, những áp đặt đối với người Trung Quốc hải ngoại và hạn chế tàu thuyền ra khơi vẫn tiếp tục được xiết chặt. Như một hệ quả tất yếu, quan hệ giao thương giữa Trung Quốc với Nam Dương đi xuống rõ rệt vào thế kỷ 18. Giao thương với tàu nước ngoài tại các cảng biển cũng được kiểm soát chặt chẽ hơn nhiều. Chính quyền nhà Thanh mở bốn cảng biển để buôn bán với người nước ngoài khi dỡ bỏ lệnh cấm biển vào năm 1684. Để kiểm soát hoạt động của người nước ngoài tại Trung Quốc, chính sách ngoại thương có nhiều thay đổi dưới thời Càn Long trị. 1736 – 95. Ngoài các quốc gia triều cống truyền thống, nhiều quốc gia phương Tây bắt đầu buôn bán với Trung Quốc từ giữa thời nhà Thanh. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và sau đó là người Anh, lần lượt giong buồm đến phương Đông từ đầu thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17. Những vị khách mới này vừa là thương nhân vừa là cướp biển, vừa buôn bán vừa thường xuyên quấy rối bờ biển Trung Quốc. Trong nửa sau thế kỷ 17 và nửa đầu thế kỷ 18, những đế quốc thực dân cũ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, và Hà Lan dần suy tàn, trong khi Đế quốc Anh non trẻ đang ngày càng mạnh mẽ và giàu tham vọng. Giao thương giữa Anh với Trung Quốc thông qua Công ty Đông Ấn bắt đầu vào thập kỷ thứ ba thời Khang Hi và phát triển dần từ những năm 1720. Lúc đầu, thương nhân Anh chỉ buôn bán với người Trung Quốc ở Quảng Châu. Nhưng từ năm 1755 đến năm 1757, những hạn chế giao thương và mức thuế xuất nhập khẩu cao ở Quảng Châu đã buộc Công ty Đông Ấn phải gửi tàu tới Ninh Ba, nơi điều kiện giao thương thoải mái hơn nhiều. Ninh Ba cũng rất gần những nơi sản xuất các mặt hàng mà người Anh ưu chuộng, như lụa thô, trà, bông, vải, Chính quyền nhà Thanh vô cùng lo lắng khi người Anh thay đổi thương cảng, vì điều này sẽ làm giảm nguồn thu của Hải quan Quảng Đông. Tuy nhiên, viễn cảnh một khu định cư nước ngoài tương tự Macao sẽ ra đời mới là điều làm chính quyền nhà Thanh lo sợ nhất. Lúc đầu, Càn Long trị. 1736 – 95 cố gắng chặn tàu Anh đi lên phía bắc tới Ninh Ba bằng các tăng thuế tại Hải quan Chiết Giang, nhưng ông đã thất bại. Vì vậy, vào mùa đông năm 1575, hoàng đế tuyên bố kể từ năm sau, mọi tàu nước ngoài đều phải cập bến Quảng Đông và tuyệt đối không được bén mảng Ninh Ba. Hành động này là một thay đổi quan trọng trong chính sách ngoại thương đầu thời nhà Thanh, nó khiến cánh cửa giao lưu với thế giới bên ngoài, vốn được khai mở từ thời Khang Hi, khép lại một phần. Cùng thời điểm, chính quyền nhà Thanh tăng cường giám sát hoạt động kinh doanh của người nước ngoài thông qua hệ thống “Gong Hang” nổi tiếng. Nhà Thanh kế thừa Gong Hang – được thiết lập tại các thương cảng từ cuối thời nhà Minh – để quản lý ngoại thương. Theo luật định, mọi thương nhân nước ngoài đều phải tiến hành kinh doanh thông qua một nhóm thương nhân Trung Quốc được chính quyền chỉ định, và không được buôn bán trực tiếp với thường dân Trung Quốc. Mọi hoạt động kinh doanh, mua hoặc bán, đều phải qua tay người đại diện hoặc người môi giới được chỉ định sẵn. Kể từ khi mở lại cảng biển vào thời Khang Hi, chính quyền địa phương đã chọn lọc một vài thương nhân làm trung gian kinh doanh cho người nước ngoài. Ở Quảng Châu, những thương nhân kiểu này gọi là thương nhân Hang, bang hội của họ gọi là “Hong” hoặc “Yanghuo Hang”. Số lượng thương nhân Hang lúc nhiều nhất là 26 người, lúc ít nhất là 4 người, nhưng vẫn thường được định chung là “mười ba Hang”. Năm 1720, các thương nhân Hang thành lập tổ chức “Gong Hang” – giải thể ngay trong năm 1721 nhưng rồi lại được khôi phục vào năm 1760. Sau khi triều đình đóng cửa tất cả các cảng biển trừ Quảng Châu, thương nhân Hang trở thành những người đại diện duy nhất độc quyền giao thương với người nước ngoài. Gong Hang thậm chí còn được giao vai trò như một tổ chức bán nhà nước có nhiệm vụ thu thuế và nợ cho chính quyền, giám sát hoạt động của người nước ngoài, làm cầu nối giữa chính quyền và người nước ngoài trong mọi vấn đề. Chính quyền nhà Thanh đưa ra nhiều luật lệ và quy định nhằm hạn chế hoạt động của người nước ngoài ở Trung Quốc sau khi Quảng Châu trở thành cảng quốc tế duy nhất vào năm 1757. Người nước ngoài phải sống ở những nơi được chỉ định trong thời gian lưu trú, phải tuân thủ nhiều quy tắc sinh hoạt và hành vi, nếu không muốn bị trục xuất và mất mối làm ăn. Ở Quảng Châu, nơi được chọn cho người nước ngoài sinh sống là một dải đất ngoại thành, với sự giúp đỡ của Gong Hang, thương nhân phương Tây xây dựng những ngôi nhà gọi là “shang guan”. Chúng được sử dụng làm nhà tài vụ, nhà kho và nơi ở. Trước năm 1840, có tổng cộng 59 “shang guan” ở Quảng Châu, hơn một nửa là của người Anh. Thương nhân nước ngoài phải sống trong shang guan của mình, số lượng nhân viên nước ngoài trong mỗi shang guang không được vượt quá năm người. Shang guan tuyệt đối không được chứa chấp phụ nữ và vũ khí. Thương nhân nước ngoài phải rời Trung Quốc hoặc trở lại Macao ngay khi hoàn thành thương vụ và không được phép ở lại Quảng Châu vào mùa đông. Trong thời gian lưu trú, ngoại trừ thương nhân Hang và thông dịch viên, người nước ngoài không được liên lạc với người Trung Quốc. Họ không được rời shang guan trừ khi đi cùng thương nhân Hang hay thông dịch viên. Họ không được thuê mướn người hầu Trung Quốc, không được ngồi kiệu. Họ không được đối thoại trực tiếp với quan chức Trung Quốc nếu có bất cứ thỉnh cầu nào họ phải chuyển qua thương nhân Hang. Thương nhân Hang được yêu cầu phải giám sát và chăm sóc người nước ngoài suốt thời gian lưu trú, từ những nhu cầu cơ bản cho đến sinh hoạt và hành vi của họ, và không được mượn tiền của người nước ngoài. Bộ quy định cũng cấm tàu chiến nước ngoài hộ tống tàu thương nhân được cập bến Hổ Môn. Tàu buôn nước ngoài ra vào Hổ Môn phải chịu sự kiểm soát hoàn toàn của hoa tiêu Trung Quốc và người quản lý tàu đã đăng ký với nha môn Macao. Nếu có buôn lậu hoặc hành vi bất hợp pháp nào khác xảy ra trên tàu, người quản lý tàu sẽ chịu trừng phạt. Những điều luật và quy định trên, dù toàn là câu chữ trên giấy, nhưng cũng phản ánh phần nào mối quan tâm và cảnh giác của các hoàng đế nhà Thanh với thế giới bên ngoài. Khi khảo cứu chính sách giao thương nước ngoài vào đầu thời nhà Thanh, có thể nói, trong gần hai trăm năm, Trung Quốc đã đóng cửa hoặc đóng cửa một phần với thế giới bên ngoai, trừ vài thập kỷ đầu khá cởi mở thời Khang Hi. So với nhà Minh, thái độ của các hoàng đế nhà Thanh với thế giới bên ngoài còn bảo thủ hơn. Vì vậy, không sai khi khái quát chung chính sách đối ngoại của nhà Thanh là “bế quan tỏa cảng”. Như đã chỉ ra ở trên, từ thời nhà Minh cho tới đầu thời nhà Thanh, hay nói chính xác hơn là từ thời đại khám phá cho tới Chiến tranh thuốc phiện, chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở Tây Âu. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản tạo ra những thay đổi lớn lao đối với trật tự thế giới truyền thống. Những nền văn minh khắp thế giới, trước đây bị ngăn trở địa lý, nay tiếp xúc với nhau mang lại cả sự giao lưu lẫn xung đột. Thế giới dần có tính liên kết hơn. Đây là thời kỳ mà hải quân, thương mại và giao thương toàn cầu lên ngôi. Các quốc gia dẫn đầu làn sóng lịch sử như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh đều theo đuổi những nhân tố kể trên để liên tiếp trở thành những siêu cường. Thế nhưng, Trung Quốc, một quốc gia gạo cội có kỹ thuật định hướng và giao thương hàng hải không thua kém bất kỳ quốc gia phương Tây nào, lại chọn đi ngược xu hướng, áp dụng chính sách hạn chế và thậm chí cấm tiệt thương mại nước ngoài. Vậy thì tại sao? Những lý do được đưa ra bao gồm truyền thống văn hóa và lịch sử Trung Quốc, những thách thức chính trị nội bộ mà nhà Minh và nhà Thanh phải đối mặt, lịch sử phát triển kinh tế ở Trung Quốc và những điều kiện giúp nền kinh tế hướng nội chiếm ưu văn minh Hoa Hạ cổ lấy nông nghiệp làm nền tảng. Vì vậy, Trung Quốc có lịch sử trọng nông ức thương lâu đời. Người Trung Quốc coi nông nghiệp là nguồn tạo ra của cải xã hội. Họ xem thường thương mại, cho rằng nó không quá quan trọng. Chính sách khuyến khích nông nghiệp và hạn chế thương mại xuất hiện sớm nhất vào thời Chiến Quốc 475 – 221 TCN. Nó tiếp tục được các hoàng đế nhà Tần và nhà Hán 221 TCN – 220 duy trì. Vào cuối thời phong kiến, mặc dù công nghiệp và thương mại phát triển nhanh chóng nhưng chủ nghĩa trọng nông vẫn thống trị tư duy kinh tế và chính sách nhà nước. Các hoàng đế Minh–Thanh tiếp tục biến nông nghiệp trở thành nền tảng kinh tế quốc dân. Theo lối tư duy của họ, thương mại chỉ là thứ yếu và luôn gắn liền với những khoản lợi nhuận vô đạo đức hay lối sống xa hoa vô độ. Do đó, người ta tiếp tục cho rằng việc quá tập trung vào thương mại sẽ gây hại cho nông nghiệp vì thu hút nhân lực nông nghiệp và làm hư hỏng xã hội. Tư tưởng trọng nông ức thương truyền thống của Trung Quốc đi ngược lại với nhu cầu tìm kiếm thương mại nước ngoài. Sau khi khám phá ra nhiều tuyến đường biển mới, chủ nghĩa trọng thương trở thành triết lý kinh tế thịnh hành ở Tây Âu. Tất cả các quốc gia đi biển lớn tại đây đều nhấn mạnh tầm quan trọng của giao thương đối với sự thịnh vượng. Họ hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của thương mại nước ngoài. Giao thương thuộc địa của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, thời đại “người đánh xe ngựa trên biển” của Hà Lan, và sự ra đời của Đế chế Anh đều là kết quả của tư duy trọng thương và các chính sách quốc gia. Nói chung, tư tưởng coi thường thương mại truyền thống của Trung Quốc hoàn toàn đối nghịch với chủ nghĩa trọng thương đang rất thịnh hành ở phương Tây đương thời. Rõ ràng, có những điểm khác biệt sâu xa trong tư duy kinh tế của Trung Quốc và các quốc gia đi biển phương Tây. Đây là lý do quan trọng giải thích tại sao Trung Quốc áp dụng chính sách hạn chế giao thương nước ngoài thời Minh– niệm “Hoa di” truyền thống cũng là một vấn đề quan trọng đáng bàn. Khái niệm này là một khái niệm văn hóa và chính trị liên quan tới chủ nghĩa trung tâm mà theo đó, văn minh Trung Quốc luôn vượt trội hơn so với các quốc gia khác. Thực ra, thái độ tự đề cao thường khá phổ biến ở các nền văn minh cổ đại lớn. Tuy nhiên, vì Trung Quốc tách biệt địa lý với mọi nền văn minh cổ đại khác, chủ nghĩa trung tâm của người Trung Quốc cực kỳ mạnh mẽ. Không chỉ có duy nhất khái niệm “Hoa di” tích hợp và có hệ thống, Trung Quốc còn phát triển một bộ tác phong và nguyên tắc để ứng xử với thế giới bên ngoài. Trung Quốc là quốc gia trung tâm và hoàng đế Trung Quốc, “Thiên tử”, cai trị toàn thế giới thuận theo ý trời. Bên ngoài Trung Quốc là khu vực sinh sống của người “man di”. Dù những quốc gia man di đều rất hung hăng và lỗ mãng, hoàng đế vẫn sẵn lòng khoản đãi và xem họ là nước phụ lưu nếu họ muốn trở nên văn minh và công nhận ông là quốc chủ bằng cách triều cống cho triều đình. Như vậy, mục đích chính của một vị hoàng đế Trung Quốc là thiết lập một trật tự thế giới mà trong đó, ông được tôn vinh là quốc chủ của mọi quốc nhưng, thế giới quan của Trung Quốc không mang tính gây hấn. Nó nhấn mạnh ưu thế vượt trội của Trung Quốc trên thế giới, nhưng không ủng hộ bành trướng hoặc muốn các quốc gia khác phải công nhận một thế giới đại đồng dưới quyền trị vì của Trung Quốc. Nó chấp nhận việc các quốc gia khác thần phục trước giá trị luân lý và sức mạnh của Trung Quốc bởi nền văn minh Trung Quốc quả thực mẫu mực. Nó đặt trọng tâm vào việc bảo tồn nền văn minh và trật tự nội bộ Trung Quốc khỏi các quốc gia khác hơn là mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ra bên ngoài. Đây là đặc điểm phân biệt Trung Quốc với các quốc gia khác. Theo quan điểm của những nhà cai trị “Thiên triều”, trật tự nội bộ là thứ rất thiêng liêng và bất khả xâm phạm, giúp định hình Trung Quốc kể từ khi quốc gia này trở nên văn minh. Vì vậy, điều tối quan trọng là phải đề phòng sự ô uế từ các quốc gia man di. Chỉ khi các quốc gia bên ngoài tuân thủ phong tục và hệ thống lễ nghi của Trung Quốc, những thứ là nền móng thiết lập trật tự nội bộ Trung Quốc, thì họ mới được công nhận và trọng đãi. Còn nếu dám thách thức những phong tục và hệ thống lễ nghi này, họ sẽ bị trục xuất và cấm niệm “Hoa di” không hề ngăn cản Trung Quốc giao lưu với thế giới bên ngoài trong buổi đầu lịch sử, đặc biệt là khi nước này cực kỳ hùng mạnh như dưới thời nhà Hán 206 TCN – 220 và nhà Đường 618 – 907. Vào thời điểm đó, các hoàng đế Trung Quốc tràn đầy tự tin. Thông qua những liên lạc với thế giới bên ngoài, cảm giác của họ về sự thượng đẳng của “Thiên triều” và văn hóa Trung Quốc càng được thỏa mãn. Nhưng từ thế kỷ 16, và đặc biệt là sau thế kỷ 17, nền văn minh Trung Quốc phải đối mặt với thách thức mạnh mẽ từ một nền văn minh mới, chưa từng được biết đến, được người châu Âu mang đến với pháo hạm. Ở cấp độ vật chất, nền văn minh châu Âu cho thấy nó ngang ngửa với nền văn minh Trung Quốc và còn vượt trội hơn ở một số khía cạnh. Điều này quả thực làm lung lay dữ dội khái niệm “Thiên triều” của các hoàng đế. Vì vậy, như một phản ứng bản năng trước phương Tây, thái độ của các hoàng đế Trung Quốc với thế giới bên ngoài trở nên tiêu cực hơn. Họ không bao giờ xếp các quốc gia phương Tây ngang hàng với Trung Quốc. Người phương Tây vẫn bị xem là bán văn minh, và các quốc gia phương Tây giao thương với Trung Quốc đều chỉ là quốc gia triều cống mà thôi. Suy cho cùng, tất cả đều là để bảo vệ phẩm giá “Thiên triều”. Trên thực tế, sự tự tin của “Thiên triều” đã sụp đổ. Vì vậy, từ chỗ rộng mở với thế giới bên ngoài, các hoàng đế Minh–Thanh chuyển qua bảo vệ nền văn minh Trung Quốc cùng trật tự nội bộ khỏi sự ô uế từ nước ngoài. Đó là lý do giải thích vì sao các hoàng đế Minh–Thanh chú trọng phân định ranh giới giữa người Trung Quốc với người nước ngoài hơn bao giờ hết và áp dụng chính sách hạn chế giao thương nước bảo an toàn cho chế độ là mục tiêu ưu tiên khi chính quyền ban hành các chính sách. Lý do chính mà nhà Minh ban bố lệnh cấm biển trong khoảng thời gian đầu và giữa triều đại là vì cướp biển Nhật Bản liên tục tấn công vùng duyên hải đông nam. Nạn cướp biển Nhật Bản kéo dài từ thế kỷ 14 đến tận giữa thế kỷ 16. Mối đe dọa xâm lược của người Mông Cổ ở phía bắc trong cùng thời kỳ cũng góp phần vào sự cần thiết phải đưa ra chính sách cấm biển. Đầu thời nhà Minh, nhà Nguyên buộc phải tháo chạy tới bình nguyên phía bắc Trường Thành sau khi bị Chu Nguyên Chương đánh bại, nhưng họ vẫn bảo toàn một vài lực lượng quân đội và chưa bao giờ từ bỏ ý định giành lại quyền kiểm soát toàn đất nước. Về sau, dù Mông Cổ đã phân liệt và nhà Nguyên đã diệt vong vào đầu thế kỷ 15, mối đe dọa Mông Cổ xâm lược vẫn thường trực cho tới khi Long Khánh Đế trị. 1567 – 72 và Altan Khan ký kết một hiệp ước hòa bình. Vì quá bận rộn với các mối đe dọa phương bắc, nhà Minh gần như không thể áp dụng bất cứ chính sách nào tích cực hơn cấm biển để bảo vệ vùng duyên hải khỏi người sách hạn chế giao thương nước ngoài của nhà Thanh cũng là vì chính trị trong nước. Lý do hoàng đế nhà Thanh cấm biển trong những năm đầu trị vì, và hạn chế người dân ra nước ngoài buôn bán ngay cả khi đã dỡ bỏ lệnh cấm biển, là để cắt đứt mối liên kết giữa các lực lượng phản Thanh ở đại lục và hải ngoại. Nhà Thanh do một nhóm người dân tộc thiểu số kiến lập. Người Hán đông gấp vài trăm lần người Mãn. Trước nhà Thanh, trừ nhà Nguyên tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi, chưa từng có triều đại nhất thống nào do người dân tộc thiểu số cai trị. Luôn khắc ghi điều này, ngay từ những ngày đầu kiểm soát đất nước, triều đình Mãn Thanh đã luôn phải bảo vệ quyền cai trị của họ trước sự kháng cự của người Hán. Điều này tiếp diễn trong suốt thời nhà Thanh. Các hoàng đế nhà Thanh biết rằng có tới hàng trăm ngàn người Hán đang sống ở Đông Nam Á, hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Họ luôn xem nhóm người Hán này là lực lượng phản Thanh tiềm tàng. Vì lẽ đó, như Khang Hi đã chỉ ra, triều đình nhà Thanh cần áp dụng những biện pháp nghiêm ngặt để hạn chế người dân ra nước ngoài, nhằm dập tắt mọi mưu đồ cấu kết của các lực lượng phản Thanh ở đại lục và hải thời nhà Minh và đầu thời nhà Thanh, nền kinh tế Trung Quốc nói chung vẫn là tự cung cấp hoặc bán tự cung cấp, lấy nông nghiệp làm trọng tâm. Đúng là thương mại có tiến triển theo một hướng chưa từng thấy, đi kèm với sự phát triển của các ngành thủ công và nông nghiệp thương mại, và mầm mống của chủ nghĩa tư bản cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, những thay đổi này chỉ ảnh hưởng tới một vài địa phương và một số lĩnh vực kinh tế. Yêu cầu khai mở quan hệ thương mại nước ngoài chủ yếu đến từ các tỉnh đông nam hưng thịnh. Ở phần lớn địa phương, nhất là những địa phương nằm sâu trong đất liền, nông nghiệp tự cung cấp hoặc bán tự cung cấp truyền thống vẫn thống trị. Những địa phương này không cấp thiết yêu cầu mở cửa thị trường nước ngoài. Thế nên, trong những cuộc tranh luận về vấn đề giao thương nước ngoài tại triều đình, tiếng nói của phe ủng hộ cấm giao thương nước ngoài luôn chiếm ưu thế. Các quan chức phản đối cấm giao thương nước ngoài thường đến từ vùng đông nam hoặc cai quản một số tỉnh ở vùng này. Trước phe đối lập quá mạnh mẽ, họ khó mà giành chiến thắng. Khi bàn tới lợi ích của giao thương nước ngoài, các quan chức lại quá tập trung nhấn mạnh việc đánh thuế người dân ven biển và bỏ qua phần lợi ích chung mà Trung Quốc sẽ có được nhờ mở cửa thị trường nước ngoài. Điều này cho thấy sự phát triển hạn chế của nền kinh tế thương mại ở Trung Quốc đương cần lưu ý rằng Trung Quốc là một quốc gia lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và hệ thống kinh tế quốc dân tích hợp, có thể sản xuất hầu hết sản phẩm cần thiết và ít phụ thuộc thế giới bên ngoài. Trung Quốc bấy giờ xuất khẩu nhiều nông sản nội địa và sản phẩm công nghiệp nhưng không mấy khi nhập khẩu hàng hóa nước khác. Trung Quốc xuất khẩu trà, lụa thô và tơ tằm, đồ sứ, vải dệt tay, hợp kim đồng–niken, đường, giấy, được liệu, và chỉ nhập khẩu đặc sản hoặc hàng xa xỉ nước ngoài, đồng Nhật Bản, gạo Xiêm La, và một lượng nhỏ đồ công nghiệp phương Tây. Do đó, thặng dư thương mại giúp Trung Quốc thu về một lượng lớn bạc mỗi năm cho đến đầu thế kỷ 19, khi thương nhân Anh bắt đầu tuồn ồ ạt thuốc phiện vào nước này. Dù có tầm quan trọng như thế nào đi chăng nữa đối với một số địa phương và một số lĩnh vực kinh tế, ngoại thương không mấy cần thiết với hầu hết dân chúng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Thái độ này đã được Càn Long thể hiện rất rõ ràng trong bức thư gửi Vua Anh George III năm 1793 khi một phái đoàn ngoại giao do Bá tước Macartney dẫn đầu được cử đến Trung Quốc để yêu cầu cải thiện quan hệ thương mại giữa hai nướcThiên triều ta sản xuất được tất, chẳng cần nước ngoài cung cấp bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, vì trà, đồ sứ và tơ lụa của Thiên triều đều là những mặt hàng thiết yếu với các quốc gia Tây Dương cũng như chính các ngươi, để chứng tỏ sự thấu hiểu, lòng trắc ẩn và ban tặng hồng phúc cho mọi thần dân Thiên triều, chúng ta đã lập nên các công ty kinh doanh ở Macao đáp ứng nhu cầu của các trích dẫn nổi tiếng trên của Càn Long, ta cảm nhận được sự kiêu căng và tầm hiểu biết hạn hẹp của ông về thế giới bên ngoài. Thế nhưng, những gì vị hoàng đế tuyên bố không hoàn toàn là vô cớ. Bởi vì Trung Quốc có quá ít nhu cầu ngoại thương nên khi phải chọn lựa giữa lợi ích thương mại và an ninh quốc gia, các hoàng đế thời nhà Minh và đầu thời nhà Thanh đương nhiên thường ưu tiên lựa chọn thứ thời đại khám phá bắt đầu vào thế kỷ 15 và 16, theo sau là quá trình mở rộng thuộc địa của phương Tây, Trung Quốc vẫn còn rất mạnh. Với lãnh thổ rộng lớn và dân số khổng lồ, Trung Quốc có lẽ là quốc gia mạnh nhất thế giới đương thời. Thế nhưng, nó đã thực sự bị bỏ lại phía sau. Chính sách hạn chế đối ngoại thời nhà Minh và đầu thời nhà Thanh khiến Trung Quốc đánh mất cơ hội cạnh tranh với các quốc gia phương Tây và không thể tiếp tục giữ vị trí cường quốc số Quốc đủ năng lực kỹ thuật để tổ chức các chuyến viễn dương từ rất lâu trước khi người phương Tây mở ra thời đại khám phá. Ngay từ thời nhà Tống, Trung Quốc đã có một nền công nghiệp đóng tàu tiên tiến có thể chế tạo các con tàu viễn dương thích ứng với nhiều điều kiện biển khác nhau. Đây cũng là quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng la bàn hàng hải cho tàu biển. Đầu thời nhà Minh, từ năm 1405 đến năm 1433, một hạm đội Trung Quốc lớn do thái giám Trịnh Hòa chỉ huy đã đi qua Biển Đông và Eo biển Malacca để vào Ấn Độ Dương và từng tiến xa tới tận bờ biển phía đông châu Phi trong một vài cuộc thám hiểm. Hạm đội của Trịnh Hòa chứng minh rằng Trung Quốc có thời là một thế lực hàng hải với kỹ thuật đóng tàu và năng lực đi biển thượng hạng. Mãi tới nửa thế kỷ sau, ngành hàng hải châu Âu mới bắt kịp Trung Quốc khi những Diaz, Columbus và Da Gama giong buồm ra Quốc không thiếu động lực để mở thị trường hải ngoại vào thời điểm người phương Tây bắt đầu thời đại khám phá. Sự phát triển nhanh chóng của nông nghiệp thương mại hóa và thủ công nghiệp tư nhân giữa những năm 1400 khiến Trung Quốc cần cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước. Điều này đặc biệt đúng với những tỉnh duyên hải đông nam như Triết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, nơi người dân có lịch sử buôn bán và kiếm sống ở hải ngoại lâu đời. Ngày càng có nhiều người từ các tỉnh này ra nước ngoài bất chấp lệnh cấm của chính quyền, và hoạt động buôn lậu hàng hải trở nên rất thịnh vượng từ cuối những năm 1400. Thời điểm đó, người Trung Quốc xuất hiện ở mọi ngóc ngách tại Đông Á và Đông Nam vậy, rất lâu trước thời đại khám phá của châu Âu, Trung Quốc đã có đủ điều kiện tiên quyết cho các cuộc thám hiểm viễn dương và chỉ còn cần được chính quyền khuyến khích. Nếu nhà Minh làm được điều này, lịch sử có thể đã thay đổi. Nhưng thực tế là khi hạm đội của Trịnh Hòa kết thúc chuyến đi cuối cùng vào năm 1433, triều đình liền hủy bỏ các đợt thám hiểm viễn dương chính thức và ra lệnh cấm người dân xuất ngoại, theo chính sách “không viễn giao”. Đồng thời, triều đình còn củng cố thêm lệnh cấm hoạt động trên biển vốn có từ thời Hồng Vũ Đế. Hậu quả của chính sách thiển cận này là Trung Quốc đã đánh mất cơ hội chiếm ưu thế trước người châu Âu trong việc mở rộng thị trường hải ngoại vào giữa thế kỷ 15. Khi người châu Âu tung hoành đại dương, Trung Quốc chỉ còn biết đứng nhìn và không thể cạnh đầu thế kỷ 16 vẫn là khoảng thời gian thuận lợi để Trung Quốc phát triển quan hệ giao thương với nước ngoài. Vào thời điểm này, Bồ Đào Nha là quốc gia châu Âu duy nhất tiến vào Tây Thái Bình Dương và xứng là đối thủ tiềm năng của Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha đến được Mũi Hảo Vọng ở phía Đông từ tận cuối thế kỷ 15. Tuy nhiên, khoảng 50 năm sau đó, họ thành lập các thuộc địa rồi chỉ buôn bán ở Ấn Độ Dương và chuỗi quần đảo lân cận ở Nam Thái Bình Dương. Họ chưa từng tới Đông Á cho đến những năm 1540 – 1550, khi thành lập hai cơ sở thương mại tại Kyushu và Macao. Thế nhưng, Trung Quốc cũng bỏ lỡ cơ hội. Ngay từ những năm 1510, người Bồ Đào Nha đã thử liên hệ với nhà Minh. Lần đầu tiên là vào năm 1513, khi một thương nhân tên là Jorge Alvares đến Đồn Môn, tỉnh Quảng Đông và trú lại một thời gian. Sau đó, vào năm 1517, vua D. Manuel cử một phái đoàn chính thức tới Trung Quốc bàn chuyện thiết lập quan hệ thương mại. Tuy nhiên, triều đình nhà Minh không hoặc không muốn hiểu tầm quan trọng của phái đoàn phương Tây. Họ xem những vị khách Bồ Đào Nha này như những sứ thần triều cống trước đây. Không hài lòng với thái độ của người Bồ Đào Nha ở Trung Quốc và việc họ chiếm đóng Malacca trước đó, triều đình nhà Minh trục xuất phái đoàn vào năm 1522 và tống giam thủ lĩnh Tome Pires. Hai năm sau, nhà Minh ban bố lệnh cấm mọi hoạt động ở hải ngoại và đóng cửa cảng quốc tế do hải tặc Nhật Bản liên tục quấy nhà Minh mở lại cảng biển vào năm 1567, thế giới đã đổi thay rất nhiều. Khoảng giữa những năm 1500 tới đầu thế kỷ 17, người Bồ Đào Nha mở rộng khu vực buôn bán của họ từ Nam Thái Bình Dương đến hầu khắp Đông Nam Á và Đông Á, người Tây Ban Nha và Hà Lan cũng lần lượt Đông tiến để thách thức người Bồ Đào Nha. Người Tây Ban Nha xâm nhập phía Đông qua Philipines và không lâu sau khi chiếm Luzon vào năm 1565, họ thiết lập Con đường Tơ lụa trên biển Thái Bình Dương nối Mexico với Manila. Họ rất muốn buôn bán trực tiếp với người Trung Quốc và có cử một phái đoàn ngoại giao đến Bắc Kinh vào năm 1580, nhưng phái đoàn này bị chặn lại ở Quảng Châu và được đưa ngược trở lại Manila. Người Tây Ban Nha đành chủ yếu buôn bán với người Trung Quốc ở Manila và chuyển hàng hóa Trung Quốc từ Manila về Mexico theo Con đường Tơ lụa trên biển Thái Bình Dương. Người Hà Lan thì đến châu Á vào đầu thế kỷ 17. Họ cũng cố liên lạc với Trung Quốc nhưng bị cản trở bởi người Bồ Đào Nha đã chiếm đóng Macao từ năm 1557. Người Hàn Lan chiếm được đảo Bành Hồ vào năm 1622, trước khi bị quân đội Trung Quốc đánh đuổi vào năm 1624. Sau đó, họ bắt đầu định cư ở Đài Loan và dần làm chủ toàn bộ hòn đảo này vào năm vậy, ngay khi dỡ bở lệnh cấm thương mại hàng hải, nhà Minh phải đối mặt với một thế giới rất khác. Thời điểm đó, tất cả các tuyến thương mại hàng hải chính yếu đều nằm trong tay các quốc gia phương Tây. Ngay cả trong khu vực buôn bán truyền thống là Tây Thái Bình Dương, người Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức mạnh mẽ từ phương Tây. Người châu Âu đang mở rộng ảnh hưởng và giành lấy lợi ích thương mại bằng đao kiếm và đại bác. Nếu nhà Minh quyết tâm sử dụng sức mạnh quân sự để cạnh tranh với phương Tây, thì chính sách ngoại thương của Trung Quốc vẫn có thể mang lại nhiều lợi ích cho nước này nhờ tầm ảnh hưởng trong khu vực. Thật không may, nhà Minh không làm gì cả. Nhà Minh thậm chí còn không hiểu được tầm quan trọng của những thay đổi bên ngoài đất nước, chứ chưa nói tới việc điều chỉnh chính sách tính đến một thế giới biến động. Triều đình cuối cùng cũng dỡ bỏ lệnh cấm biển và bắt đầu cho phép người dân xuất ngoại, nhưng điều đó không phải là vì triều đình muốn khuyến khích thị trường hải ngoại, mà chỉ là vì không thể tiếp tục cầm chân người dân mà thôi. Ngược lại, họ vẫn cố cản người dân ra nước ngoài mở thị trường bằng đủ loại chướng ngại vật. Không được nhà nước hỗ trợ, thương nhân Trung Quốc không thể cạnh tranh bình đẳng với người phương Tây trên thị trường hải ngoại. Điều này là trở lực lớn lao đối với sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc. Từ khi phương Tây kiểm soát tất cả các tuyến đường thương mại đến các thị trường bên ngoài Tây Thái Bình Dương, thương nhân Trung Quốc đành phải hạn chế hoạt động trong khu vực buôn bán truyền thống. Họ thậm chí không thể cạnh tranh sòng phẳng với người phương Tây ở Tây Thái Bình Dương mặc dù người phương Tây chỉ đơn thuần chuyển hàng hóa từ nơi này tới nơi khác. Người phương Tây thì không hoạt không đơn độc, họ được hỗ trợ bởi quyền lực chính trị nhà nước và quân đội. Các quốc gia phương Tây thời điểm đó đang chiếm lĩnh thuộc địa trong khu vực thương mại truyền thống của Trung Quốc ở châu Á và kiểm soát gần như tất cả các thị trường chính. Họ sử dụng chính trị và quân đội để làm điều này. Trước tình hình đó, rõ ràng là người Trung Quốc xuất ngoại, không có gì ngoài hàng hóa, không thể đối đấu với thương nhân phương Tây, dù có mang về một lượng lớn bạc mỗi thời nhà Thanh, Trung Quốc nói chung tụt hậu so với các quốc gia phương Tây tân tiến nhưng vẫn còn cơ hội bắt kịp. Cơ hội thuận lợi nhất đến vào cuối thế kỷ 17, khi hai đế quốc cũ là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã sa sút. Hà Lan cũng đã qua thời kỳ bành trướng hoàng kim và vì đấu trường thuộc địa chính là Ấn Độ và Đông Ấn, nên nước này không còn là thế lực trên biển đáng gớm ở Đông Á. Anh với tư cách là một đế quốc non trẻ, chưa thể phát triển hết mức. Quá bận rộn đối nội sau cuộc nội chiến những năm 1640, Anh không mở rộng ảnh hưởng ở Đông Á cho đến thế kỷ 18. Trong hoàn cảnh chính trị thuận lợi này, nếu nhà Thanh hoạch định vấn đề hàng hải tốt hơn và hỗ trợ mạnh mẽ cho ngoại thương, đồng thời nỗ lực bắt kịp phương Tây trong các lĩnh vực quân sự, khoa học và công nghệ, số phận Trung Quốc chắc hẳn đã khác Trung Quốc lại một lần nữa để vuột mất cơ hội. Trong thập kỷ cai trị đầu tiên, 1644 – 83, triều đình Mãn Thanh phải tập trung toàn lực thống nhất đất nước và giải quyết nhiều vấn đề nội bộ. Vì vậy, họ không đoái hoài tới ngoại thương, và thực tế còn ban bố lệnh cấm biển hòng cắt mối liên kết của các lực lượng phản Thanh ở hải ngoại và đại lục. Khi nhà nước phản Thanh của dòng họ Trịnh sụp đổ tại Đài Loan vào năm 1683, đó là thời cơ để nhà Thanh cởi mở hơn với vấn đề hàng hải. Tuy nhiên, triều đình nhà Thanh cũng chẳng có ý định làm điều gì tích cực ngoài dỡ bỏ lệnh cấm biển. Khang Hi là một trong những hoàng đế có tầm nhìn xa và nhiều thành tựu nhất lịch sử Trung Quốc. Ông làm rất nhiều việc để bảo vệ tính thống nhất chính trị và toàn vẹn lãnh thổ cũng như để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Thế nhưng, ông chưa bao giờ thực sự phóng tầm mắt ra khỏi đất nước và nghĩ đến việc mở ra cho Trung Quốc một tương lai mới bằng cách thổi bùng một cuộc chiến thương mại hàng hải với các quốc gia phương Tây. Ông thậm chí còn chưa bao giờ xây dựng một lực lượng hải quân đúng nghĩa mà chọn cách bảo vệ duyên hải Trung Quốc chỉ bằng những khẩu đại bác do các đơn vị đồn trú nhỏ đóng tại cảng biển vận hành. Khang Hi biết nhiều về phương Tây hơn bất kỳ hoàng đế tiền nhiệm nào và cũng nhận thức được rằng tương lai Trung Quốc đang bị phương Tây đe dọa, nhưng ông không chịu đưa ra phương sách đối phó. Thái độ và chính sách của Khang Hi y hệt các nhà cai trị tiền nhiệm, đó là đóng chặt cửa và không cho kẻ thù vào nhà. Ông chẳng những không hỗ trợ người dân xuất ngoại mà còn đặt đủ thứ chướng ngại cản trở. Người dân không được đóng tàu đi biển cỡ lớn; không được phép vũ trang dù là để tự vệ; không được lưu vong hải ngoại, Cuối cùng, trong những năm cuối đời, Khang Hi còn cấm người dân đến Nam Dương. Những điều trên đều là những trở lực lớn cản trở sự phát triển của ngoại thương Trung thời điểm chính sách ngoại thương của nhà Thanh ngày một nhiều hạn chế, thế giới vẫn đang biến động từng ngày. Từ thế kỷ 18, Anh trở thành đế quốc trên biển mới nổi, thay thế Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan. Anh tích lũy tư bản lần đầu tiên vào nửa đầu thế kỷ 18. Từ nửa sau thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, Anh trải qua cách mạng công nghiệp và trở thành “công xưởng của thế giới”. Cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn toàn thay đổi tương quan sức mạnh giữa phương Tây với Trung Quốc và khiến Trung Quốc quá đỗi lạc hậu trước các quốc gia phương chí, ngay cả vào lúc này, nhà Thanh vẫn mơ màng rằng “Thiên triều” là quốc gia lãnh đạo thế giới. Năm 1793, phái đoàn ngoại giao Anh do Bá tước Macartney dẫn đầu sang Trung Quốc và được đối đãi như một sứ đoàn triều cống. Càn Long thậm chí còn chẳng thèm nhìn những món quà mà phái đoàn mang đến nhằm thể hiện nền khoa học và công nghệ tiên tiến cũng như sức mạnh quân sự của nước Anh. Ông không hiểu rằng cán cân quyền lực Đông–Tây đang thay đổi đáng kể, và thời kỳ hoàng kim những năm “Thiên triều” đóng cửa giờ đã qua. Hiện tại, gần như chẳng còn chút cơ hội nào để hoàng triều bắt kịp phương Tây, hoặc thậm chí tiếp tục đóng cửa. Nỗi quốc nhục trong “Chiến tranh thuốc phiện” và những tai họa mà người dân Trung Quốc phải hứng chịu trong hơn 100 năm tiếp theo là phần thưởng cay đắng cho chính sách đối ngoại hạn chế được các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh áp dụng vì không nắm được xu thế toàn cầu.
6 chính sách của nhà nước đối với thanh niên Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau 1. Thanh niên là ai? Theo Điều 1 Luật Thanh niên 2020, thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. Trong đó, công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, được hưởng các quyền và thực hiện các trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước. Theo Hiến pháp 2013 Cụ thể tại Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi 2014, người có quốc tịch Việt Nam bao gồm - Người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật Quốc tịch Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi 2014. - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật Quốc tịch Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam. Ngoài ra, người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa mất quốc tịch Việt Nam mà không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 sửa đổi 2014 thì đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam 2. Các chính sách của nhà nước đối với thanh niên Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về học tập và nghiên cứu khoa học Về học tập và nghiên cứu khoa học, theo Điều 16 Luật Thanh niên 2020 đã quy định các chính sách đó như sau - Bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và tạo điều kiện cho thanh niên tham gia nghiên cứu khoa học. - Ban hành và bảo đảm thực hiện các chương trình giáo dục đạo đức, lý tưởng, truyền thống dân tộc, lối sống văn hóa, kỹ năng sống, ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên. - Có chính sách tín dụng, học bổng, miễn, giảm học phí cho thanh niên theo quy định của pháp luật. - Khuyến khích, hỗ trợ thanh niên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; khả năng sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. - Ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo của thanh niên; tham gia đào tạo kỹ năng sống và kỹ năng cần thiết khác cho thanh niên. Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về lao động, việc làm Theo Điều 17 Luật Thanh niên 2020, chính sách về lao động, việc làm đối với thanh niên được quy định như sau - Tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động cho thanh niên; giáo dục kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp cho thanh niên; bảo đảm thanh niên không bị cưỡng bức, bóc lột sức lao động. - Tạo điều kiện để thanh niên có việc làm; tạo việc làm tại chỗ cho thanh niên ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo phù hợp với từng vùng, miền, gắn với từng giai đoạn phát triển của đất nước. - Tạo điều kiện cho thanh niên được vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn tín dụng hợp pháp khác để tự tạo việc làm, phát triển sản xuất, kinh doanh. Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về khởi nghiệp Chính sách về khởi nghiệp đối với thanh niên được quy định cụ tại Điều 18 Luật Thanh niên 2020 như sau - Giáo dục, đào tạo kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp cho thanh niên. - Cung cấp thông tin về thị trường; hỗ trợ pháp lý, khoa học và công nghệ, xúc tiến đầu tư, phát triển nguồn nhân lực; ưu đãi vay vốn từ các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. - Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để thanh niên khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng khoa học và công nghệ. - Ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; khuyến khích thành lập quỹ khởi nghiệp cho thanh niên theo quy định của pháp luật Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Theo Điều 19 Luật Thanh niên 2020, các chính sách về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe đối thanh niên bao gồm - Tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho thanh niên; phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại tình dục; phòng, chống ma túy, HIV/AIDS; phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh xã hội khác và các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần của thanh niên. - Bảo đảm cho thanh niên được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch vụ thân thiện về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn - Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho thanh niên. Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về văn hóa, thể dục, thể thao Về văn hóa, thể dục, thể thao, theo Điều 20 Luật Thanh niên 2020 đã quy định các chính sách đó như sau - Khuyến khích, hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động và sáng tạo trong văn hóa, thể dục, thể thao. - Tạo điều kiện cho thanh niên tích cực tham gia giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. - Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức và bảo vệ sự an toàn của thanh niên trên không gian mạng. - Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục, thể thao cho thanh niên. Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về bảo vệ Tổ quốc Chính sách về bảo vệ Tổ quốc đối với thanh niên được quy định tại Điều 21 Luật Thanh niên 2020 như sau - Bảo đảm cho thanh niên được giáo dục quốc phòng và an ninh, tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Bảo đảm cho thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự; nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân, Dân quân tự vệ; tham gia quân nhân dự bị và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân theo quy định của pháp luật. - Thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info
Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên Thứ Sáu, 21/05/2021 - 1721 - Lượt xem 25769 Luật Thanh niên được Quốc hội khoá XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 16/6/2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 và thay thế Luật Thanh niên năm 2015 đã quy định cụ thể về chính sách của Nhà nước đối với thanh niên, như sau 1. Chính sách về học tập và nghiên cứu khoa học Điều 16 1 Bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và tạo điều kiện cho thanh niên tham gia nghiên cứu khoa học. 2 Ban hành và bảo đảm thực hiện các chương trình giáo dục đạo đức, lý tưởng, truyền thống dân tộc, lối sống văn hóa, kỹ năng sống, ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên. 3 Có chính sách tín dụng, học bổng, miễn, giảm học phí cho thanh niên theo quy định của pháp luật. 4 Khuyến khích, hỗ trợ thanh niên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; khả năng sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. 5 Ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo của thanh niên; tham gia đào tạo kỹ năng sống và kỹ năng cần thiết khác cho thanh niên. 2. Chính sách về lao động, việc làm Điều 17 1 Tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động cho thanh niên; giáo dục kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp cho thanh niên; bảo đảm thanh niên không bị cưỡng bức, bóc lột sức lao động. 2 Tạo điều kiện để thanh niên có việc làm; tạo việc làm tại chỗ cho thanh niên ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo phù hợp với từng vùng, miền, gắn với từng giai đoạn phát triển của đất nước. 3 Tạo điều kiện cho thanh niên được vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn tín dụng hợp pháp khác để tự tạo việc làm, phát triển sản xuất, kinh doanh. 3. Chính sách về khởi nghiệp Điều 18 1 Giáo dục, đào tạo kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp cho thanh niên. 2 Cung cấp thông tin về thị trường; hỗ trợ pháp lý, khoa học và công nghệ, xúc tiến đầu tư, phát triển nguồn nhân lực; ưu đãi vay vốn từ các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. 3 Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để thanh niên khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng khoa học và công nghệ. 4 Ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp; khuyến khích thành lập quỹ khởi nghiệp cho thanh niên theo quy định của pháp luật 4. Chính sách về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Điều 19 1 Tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho thanh niên; phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại tình dục; phòng, chống ma túy, HIV/AIDS; phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh xã hội khác và các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần của thanh niên. 2 Bảo đảm cho thanh niên được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch vụ thân thiện về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn 3 Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho thanh niên. 5. Chính sách về văn hóa, thể dục, thể thao Điều 20 1 Khuyến khích, hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động và sáng tạo trong văn hóa, thể dục, thể thao. 2 Tạo điều kiện cho thanh niên tích cực tham gia giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 3 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức và bảo vệ sự an toàn của thanh niên trên không gian mạng. 4 Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục, thể thao cho thanh niên. 6. Chính sách về bảo vệ Tổ quốc Điều 21 1 Bảo đảm cho thanh niên được giáo dục quốc phòng và an ninh, tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2 Bảo đảm cho thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự; nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân, Dân quân tự vệ; tham gia quân nhân dự bị và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân theo quy định của pháp luật. 3 Thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được hưởng chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. 7. Chính sách đối với thanh niên xung phong Điều 22 1 Thanh niên xung phong là lực lượng xung kích của thanh niên tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, giáo dục, đào tạo, rèn luyện thanh niên và các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách, khó khăn, gian khổ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2 Nhà nước ban hành chính sách để thanh niên xung phong thực hiện các nhiệm vụ sau đây a Tham gia dự án phát triển kinh tế - xã hội được Nhà nước giao; b Tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ môi trường; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia; c Tham gia sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho thanh niên; d Các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách, khó khăn, gian khổ theo quy định của pháp luật. 3 Nhà nước bảo đảm điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết cho tổ chức thanh niên xung phong khi thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao. 4 Thanh niên xung phong được hưởng chế độ, chính sách trong và sau khi hoàn thành nhiệm vụ. 8. Chính sách đối với thanh niên tình nguyện Điều 23 1 Thanh niên tình nguyện là thanh niên tự nguyện tham gia hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội phù hợp với quy định của pháp luật. 2 Nhà nước ban hành chính sách đối với thanh niên tình nguyện như sau a Tạo lập các kênh thông tin để thanh niên được tiếp cận và tham gia hoạt động tình nguyện; b Xây dựng chương trình, dự án đưa thanh niên tình nguyện về làm việc tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; c Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện vì lợi ích của cộng đồng, xã hội. 9. Chính sách đối với thanh niên có tài năng Điều 24 1 Nhà nước có chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đối với thanh niên có tài năng. 2 Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện chính sách đối với thanh niên có tài năng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. 10. Chính sách đối với thanh niên là người dân tộc thiểu số Điều 25 1 Ưu tiên cho thanh niên là người dân tộc thiểu số về học tập, lao động, việc làm, khởi nghiệp, chăm sóc sức khỏe, thể dục, thể thao. 2 Hỗ trợ thanh niên là người dân tộc thiểu số giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, đấu tranh xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu. 3 Ưu tiên lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng và đưa vào quy hoạch để tạo nguồn lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức là thanh niên người dân tộc thiểu số trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước. 4 Khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức ưu tiên tuyển dụng thanh niên là người dân tộc thiểu số. 11. Chính sách đối với thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi Điều 26 1 Bảo đảm hoàn thành phổ cập giáo dục theo quy định của pháp luật. 2 Ưu tiên, tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí phù hợp với khả năng và lứa tuổi để phát triển toàn diện. 3 Đào tạo, tư vấn lựa chọn nghề nghiệp, việc làm phù hợp với lứa tuổi. 4 Trang bị kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ trước nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần; bảo đảm các biện pháp hỗ trợ và can thiệp để thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được sống an toàn, lành mạnh. 5 Bảo đảm việc thực hiện các chính sách về hình sự, hành chính, dân sự theo quy định của pháp luật. 6 Ưu tiên giải quyết nhanh chóng các vụ việc gây tổn hại đến thể chất và tinh thần của thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. 7 Khuyến khích tổ chức, cá nhân phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu cho thanh niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi./. Minh Hiền - Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang
Bảo mật & CookieThis site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control giả Sử Chí Hoành Shi ZhihongViện kinh tế Viện khoa học xã hội Trung QuốcNguyễn Quốc Vương dịch từ tiếng AnhDẫn NhậpTừ những năm đầu của thế kỉ 15, người châu Âu đã bắt đầu các cuộc phát kiến địa lý để tìm ra những con đường mới tới phương Đông, nơi mà đương thời người ta tin rằng nó có đầy vàng, bạc và hương liệu. Theo sau dấu chân của các nhà hàng hải vĩ đại, những người đã khám phá ra các con đường biển từ châu Âu tới châu Á và lục địa mới là châu Mĩ và cùng với việc hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới bắt đầu từ Châu Âu vào cuối thế kỉ 15 đầu thế kỉ 16, những người châu Âu đã mở rộng sức mạnh và ảnh hưởng của họ trên khắp thế giới báo hiệu một kỉ nguyên mới với đặc trưng là sự cướp bóc thuộc địa trong lịch sử thế giới hiện cuộc đại phát kiến và sự bành trướng thuộc địa theo sau không chỉ mang lại những tiến bộ chưa từng thấy trong sự phát triển xã hội và kinh tế ở Tây Âu và thúc đẩy sự tăng tiến của chủ nghĩa tư bản ở đây mà còn làm thay đổi lớn lao bản đồ chính trị thế giới. Một vài quốc gia nhỏ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh vốn nằm ở bên ngoài nền văn minh Châu Âu giờ đây nổi lên như những siêu quyền lực của thế giới sở hữu uy thế về hải quân và lãnh thổ trên biển rộng lớn đi kèm. Sự bành trướng ra khắp thế giới của chủ nghĩa tư bản phương Tây đang lên tạo ra bộ mặt của thế giới là dòng chảy chính của lịch sử thế giới hiện đại. Dưới dòng chảy dữ dội này, nhiều nền văn minh cổ xưa ở châu Á, châu Phi và châu Mĩ đã suy tàn hoặc biến Quốc với tư cách như là một bộ phận của thế giới đã không tìm thấy lối ra để tránh khỏi dòng chảy này. Thực tế nền văn minh Cathaysian, một trong những nền văn minh cổ và huy hoàng nhất trên thế giới, bắt đầu xuống dốc từ thế kỉ 16 đã tạo ra hình ảnh tương phản với sự nổi lên mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Rất đúng khi nói rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển trong vài trăm năm tiếp theo, nhưng dưới hệ thống tọa độ thế giới và so sánh với Tây Âu, thì không còn nghi ngờ gì nữa trong thời kì này Trung Quốc đã bước đi chậm chạp và dần bị phương Tây bỏ lại phía sau trong kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học, công nghệ và nhiều lĩnh vực Quốc cuối cùng cũng bị phương Tây đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện 1840-1842 và bắt đầu giai đoạn lịch sử nhục nhã trong hơn một trăm năm kể từ đó đã diễn ra như thế nào? Tại sao một quốc gia vĩ đại chưa hề thua kém bất cứ một quốc gia nào khác ở vào thời điểm bắt đầu của các cuộc phát kiến địa lý và do có lãnh thổ rộng lớn và dân số đông đảo sức mạnh quốc gia của nó chắc chắn là đứng đầu thế giới vào thời gian đó lại suy sụp và cuối cùng bị đánh bại? Điều này có thể được phân tích ở nhiều phương diện lịch sử trong chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng và văn hóa, khoa học công nghệ, mâu thuẫn nội tại, mối quan hệ với bên ngoài và sẽ có các câu hỏi khác nhau được đưa ra. Trong bài báo này, tác giả sẽ trình bày chi tiết quan điểm chính sách ngoại giao bảo thủ tiến hành bởi nhà Minh và nhà Thanh ít nhất cũng là một trong những lí do quan trọng làm cho Trung Quốc rơi vào định mệnh nếu như nó không phải là nhân tố quan trọng nhất. Đó chính là bởi các chính sách ngu dốt và thiển cận đã làm Trung Quốc mất đi cơ hội cạnh tranh với phương Tây để tiếp tục duy trì vị trí tiên phong trên thế giới trong khi cơ hội này đã tồn tại rất dài sau các cuộc đại phát chất của nhà Minh và chính sách ngoại thương đầu triều Chính sách ngoại thương của nhà Minh 1368-1644Nhà Minh thực thi chính sách cấm biển và nghiêm cấm người dân ra nước ngoài trong giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Trong những năm này, ngoại thương hợp pháp chủ yếu là mậu dịch triều cống có nghĩa rằng chỉ có thuyền nước ngoài tới triều cống mới được phép buôn bán với Trung Quốc. Không phải tất cả các nước ngoài đều được phép triều cống triều đình mà phải là những nước có tên được ghi chép chính thức trong Đại Minh hội điển Da Ming Huidian bộ sưu tập các bộ luật của nhà Minh và các thuyền triều cống chỉ được đến vào thời gian được quy định chính thức. Các thuyền triều cống được phép đến cũng chỉ được mang theo một số lượng hàng hóa nhất định để bán bên cạnh những món đồ được chuẩn bị để dâng lên hoàng đế. Tất cả các thuyền phải neo ở nơi các cảng biển duyên hải được chỉ định và trình lên kanhe một giấy phép đặc biệt do nhà Minh cấp cho các sứ thần nước ngoài để kiểm tra. Chính quyền nhà Minh mở ba cảng biển truyền thống đối với thế giới bên ngoài Ning Ba Ningbo ở tỉnh Triết Giang Zhejiang, Tuyền Châu Quanzhou ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Châu Canton ở tỉnh Quảng Đông. Đặc biệt những tổ chức được gọi là Shibo Tiju Shi được lập ra ở ba cảng trên đảm đương việc tiếp đón các sứ thần từ nước ngoài tới và quản lý các hoạt động ngoại thương tại cảng. Ở kinh đô, đặt tại Nam Kinh trong thời gian 1368-1421 và Bắc Kinh trong thời gian 1421-1644, một tổ chức được gọi là Huitong Guan Hội đồng quán với chức năng tương tự được lập ra trực thuộc Bộ Lễ. Tất cả các hoạt động buôn bán với người Trung Quốc tại các cảng biển hay ở Hội Đồng Quán đều đặt dưới sự giám sát của các quan chức triều mại triều cống hoàn toàn bị triều đình kiểm soát và luôn được coi như là một bộ phận của ngoại thương quốc gia nhưng không được coi là hoạt động thương mại đơn thuần. Điều này rất khác với đầu thời nhà Minh khi vương triều mới thành lập đang phát triển với sức mạnh chính trị thống nhất, sức mạnh của quân đội và nền kinh tế huy hoàng vì thế các hoàng đế có tham vọng thu nhận các sứ thần nước ngoài để có thêm danh tiếng và uy tín hòng chứng tỏ Trung Hoa là quốc gia vĩ đại. Trong lịch sử Trung Hoa, sự thăm viếng của các thuyền triều cống nước ngoài từ bên ngoài thế giới đã được coi như là danh dự của quốc gia và là tín hiệu của kỉ nguyên hưng thịnh. Để thu hút thêm các quốc gia phái thuyền đến, các vua đầu triều nhà Minh đã thực thi chính sách giá cao và miễn thuế đối với các món hàng triều cống và hàng hóa đi kèm trên các con thuyền này. Dưới chính sách này, chính quyền nhà Minh không chỉ đáp lại các món đồ triều cống nước ngoài bằng các phần quà có giá trị mà còn mua phần lớn các món hàng hóa đi kèm trên thuyền với giá cao hơn giá trị thực của chúng và cho phép các hàng hóa còn lại được bán ra ngoài chợ, thường thì chúng là những món đồ rẻ tiền. Các mệnh lệnh đặc biệt về miễn thuế thường được đưa ra bởi các vua đầu vương triều nhà Minh mặc dù theo như quy định của triều đình thì tất cả các hàng hóa do các thuyền triều cống bán ra đều phải nộp thuế với tỉ lệ nhất hấp dẫn bởi thương mại sinh lợi dưới chính sách ưu đãi này, nhiều quốc gia ở biển phía đông và phía nam đã phái các con thuyền triều cống tới Trung Quốc vào đầu thời nhà Minh. Trong thời gian trị vì của vua Hồng Vũ 1368-1398, có hơn một tá các quốc gia đã triều cống nhà Minh được ghi chép lại. Sau các chuyến đi của Trịnh Hòa tới biển phía tây trong thời gian trị vì của hoàng đế Vĩnh Lạc 1403-1424 và hoàng đế Tuyên Đức 1426-1435, phạm vi ngoại thương của nhà Minh được mở rộng tới ngoại biên của Ấn Độ Dương bao gồm Tây Á và bờ biển phía đông của Châu Phi và các quốc gia phái thuyền triều cống tới Trung Quốc tăng lên tới hơn 30 nước. Thương mại triều cống đã đạt tới thời kì hoàng kim trong thời gian luôn phải ưu tiên cho sự tính toán về chính trị, thương mại triều cống đem lại rất ít lợi ích cho nền kinh tế nhà Minh. Trên thực tế, chi phí mà nhà Minh bỏ ra lớn hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ nó. Để tiếp nhận các sứ thần triều cống và đoàn tùy tùng của họ, nhà Minh đã phải dùng rất nhiều tiền mỗi năm trong việc cung cấp cho họ nhà ở và thức ăn trong thời gian họ ở Trung Quốc, bảo vệ họ suốt cuộc hành trình qua các cảng biển duyên hải và khi họ tới kinh đô, đáp lễ lại họ và các ông vua của họ bằng các món quà Trung Hoa. Đặc biệt sau các chuyến đi của Trịnh Hòa, do sự cập bến thường xuyên ngày một nhiều của các thuyền triều cống nước ngoài và sự mở rộng quy mô phái đoàn ngày càng có nhiều thương nhân mang theo các hàng hóa đi cùng với thuyền triều cống nên nhà Minh đã cảm thấy không chỉ khó khăn trong việc đón tiếp họ mà chi phí tài chính chi trả cho việc đón tiếp các sứ thần nước ngoài cũng dần trở thành gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Bởi thế quy mô và phạm vi thương mại triều cống đã bị giới hạn. Kể từ triều vua Vĩnh Lạc, triều đình nhà Minh đã dần dần tiến hành hệ thống ban hànhkanheđối với mỗi quốc gia triều cống và bắt đầu hạn chế sự thăm viếng thường xuyên của các con thuyền của họ cũng như số lượng thuyền và số lượng người của phái đoàn mỗi lần triều cống. Để việc quản lí thương mại trở nên dễ dàng hơn, thậm chí triều đình nhà Minh còn đặt ra các lộ trình cụ thể và các cảng biển được chỉ định cho thuyền của từng quốc gia. Ví dụ theo Đại Minh hội điển, người Nhật chỉ có thể thực hiện triều cống 10 năm một lần và thuyền của họ phải vào cảng Ninh Ba và số lượng người của mỗi phái đoàn cho mỗi lần triều cống không vượt quá 300 và không quá 3 chiếc thuyền. Ryukyu Lưu Cầu nay là Okinawa của Nhật chú thích của người dịch thực hiện triều cống 2 năm một lần và vào cảng Tuyền Châu với số lượng người không quá 100, Zhancheng champa, Zhenla Cam-pu-chia, Xiêm và các quốc gia ở biển tây thực hiện triều cống 3 năm một lần và vào bến Quảng Châu CantonViệc đặt ra ngày càng nhiều các giới hạn đối với các thuyền triều cống nói lên rằng nhà Minh đã trở nên kém mặn mà với việc đón tiếp các con thuyền triều cống nước thảm họa nghiêm trọng do các hải tặc người Nhật mang đến vào giữa thời Minh đã làm cho chính sách ngoại giao của quốc gia trở nên bảo thủ và tự ti hơn và cuối cùng đã dẫn tới việc cấm biển dưới thời vua Gia Tĩnh 1522-1566. Sự quấy rối của hải tặc Nhật đã bắt đầu từ giữa thế kỉ 14 nhưng nó chưa trở thành vấn đề nghiêm trọng cho tới cuối thế kỉ 15 khi người Nhật bước vào Thời kì chiến quốc. Trong thời kì này, các cuộc nội chiến và các cuộc nổi loạn trong nước đã tạo ra một số lượng lớn các võ sĩ lang thang, họ tụ tập trên biển và tiến hành các hoạt động cả trong vai thương nhân và cướp biển, thường xuyên quấy rối vùng duyên hải đông nam Trung Quốc. Sự tranh giành giữa các phái đoàn triều cống khác nhau được phái tới bởi các lãnh chúa Nhật lớn, nhỏ vào thời gian đó cũng mang tới tai họa cho Trung Quốc. Một cuộc bàn cãi sôi nổi về chính sách ngoại thương đã nổ ra trong triều đình nhà Minh sau sự kiện khẳng định quyền triều cống giữa hai phái đoàn được cử đến bởi hai lãnh chúa Nhật khác nhau vào năm 1523. Kết quả của sự tranh giành này là hoàng đế Gia Tĩnh đã giải tán các Shibo Tiju Si ở tất cả các cảng duyên hải và tuyên bố cấm biển trong cùng năm đó. Cánh cửa ngoại thương đã đóng cấm nghiêm ngặt trên biển không chống lại được sự quấy rối của hải tặc Nhật nhưng đã gây hại cho ngoại thương thông thường của Trung Quốc. Kể từ đó không có kênh nào để cho thương nhân Trung Quốc và thương nhân người nước ngoài buôn bán, buôn lậu trên vùng duyên hải đông nam đã bắt đầu trở nên sôi nổi hơn bất cứ khi nào trước đó. Các kẻ chuyên quyền ở địa phương và những thương nhân giàu có ở các tỉnh đông nam, đôi khi cũng được các quan chức địa phương hậu thuẫn, đã đóng vai trò đi đầu trong buôn lậu. Các thương nhân Trung Hoa đầy quyền lực này thường được vũ trang và đồng thời cũng là cướp biển đã thông đồng với người Nhật thậm chí đóng giả là người Nhật để giết người cướp của trong khu vực miền duyên hải. Nhà Minh tuyên bố cấm biển nhưng không làm gì nhiều để tăng cường phòng thủ cả ở bờ biển và trên mặt biển. Trong phần lớn thời gian dưới triều vua Gia Tĩnh, cả hải tặc Nhật thật và giả đã hoành hành ở khu vực duyên hải Đông nam Trung Quốc và gây thiệt hại nặng cho sự phát triển thương mại, kĩ nghệ của biển cũng làm sụt giảm thu nhập hàng năm của nhà Minh. Đặc biệt đối với tài chính địa phương ở Triết Giang và Phúc Kiến bởi vì phần lớn sự tiêu dùng của hai tỉnh này là đến từ ngoại thương và cấm biển đã làm cho các tỉnh này gặp thêm nhiều khó khăn về tài chính so với các tỉnh khác. Những yêu cầu từ bỏ lệnh cấm chưa bao giờ ngừng dưới triều vua Gia Tĩnh và phần lớn được chủ trì bởi các viên chức tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, các cuộc tranh cãi nảy lửa về chính sách ngoại thương đã diễn đi diễn lại trong triều nhà Minh. Do vấn đề hải tặc Nhật quấy rối đã được giải quyết cơ bản vào cuối thời vua Gia Tĩnh, nhà Minh đã thay đổi chính sách trên biển bắt đầu từ sự lên ngôi của vua Long Khánh 1567-1572. Từ năm 1567, thương nhân Trung Quốc được phép ra nước ngoài buôn bán với các quốc gia ở Biển Đông và Biển Tây ngoại trừ Nhật Bản và các thuyền nước ngoài trừ các thuyền đến từ Nhật Bản được phép đến Trung Quốc. Năm 1599, Shibo Tiju Si được tái lập ở Quảng Châu Canton và Ninh Ba Ningbo. Vì vậy chính sách cấm biển được thực thi từ đầu triều Minh cuối cùng đã được hủy bỏ. Nhưng sự chuyển đổi này đến quá muộn khi chỉ còn có vài thập kỉ nữa là triều Minh chấm nhiên, cuối cùng việc mở biển cũng đem đến cho ngoại thương một không gian hợp pháp cho sự phát triển bình thường của nó. Đặc biệt đối với thương mại phi chính phủ chỉ việc những người Trung Hoa thông thường buôn bán với nước ngoài, đã giải phóng năng lượng bị dồn nén bởi chính sách cấm biển. Thương mại phi chính phủ đã tồn tại kể từ khi triều Minh ra đời và chưa bao giờ gián đoạn thậm chí ngay cả trong thời gian lệnh cấm biển được thực thi nghiêm ngặt nhất. Nó đã trở thành làn sóng không thể cưỡng lại kể từ giữa thời Minh, với sự phát triển nhanh chóng của kĩ nghệ thủ công và thương mại trong nước, đặc biệt ở phần phía đông nam, mở cửa ra thị trường bên ngoài đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Buôn lậu với quy mô lớn trong thời vua Gia Tĩnh đã bùng nổ trong bối cảnh lịch sử đó. Sau khi lệnh cấm biển được dỡ bỏ, thương mại phi nhà nước đã trở nên ngày càng hưng thịnh hơn bất cứ khi nào trước đó. Yuegang, một thành phố bận rộn nhất có tiền thân là một làng đánh cá nhỏ ở huyện Chương Châu Zhangzhou, tỉnh Phúc Kiến, tham gia vào hoạt động buôn lậu trên biển kể từ giữa thời Minh, đã trở thành một cảng biển nổi tiếng nhất đối với những người dân Trung Quốc đi ra nước ngoài ở vào thời gian đó. Theo một tác giả sống vào cuối thế kỉ 16, tích lũy thương mại của những người ra nước ngoài buôn bán từ cảng Yuegang không hề thua kém hàng trăm ngàn lạng vàng mỗi năm kể từ thời vua Long tăng cường sự quản lý ngoại thương, nhà Minh đã lập ra hạt Hải Thành Haicheng tại Yuegang và đặt ra một cơ quan đặc biệt gọi là Du Xiang Guan ở đó để thu thuế sau khi mở biển năm 1567. Chính quyền hạt ra điều kiện rằng tất cả các thuyền ra nước ngoài phải có giấy phép đặc biệt Chuan Yin và phải trả một khoản chi phí nhất định. Có chỉ tiêu đối với việc ban hành các giấy phép đó mỗi năm, lúc đầu nó là 88 và sau đó tăng lên tới 100 và 210. Tất cả các thuyền đi ra biển bị giới hạn về kích cỡ và không được phép mang theo vũ khí cũng như các món hàng phi pháp khác. Họ chỉ được phép đến những nước mà ông chủ họ đã đề nghị trước đó và phải trở về trước khi hết hạn thời gian được phép tất cả những điều đó được viết rất rõ ràng trên giấy phép đã được ban hành. Cùng với phí thông hành, chính phủ thu ba loại thuế khi thuyền trở về, đó là thuế với tên gọi shui xiang đánh vào thuyền căn cứ theo kích thước, lu xiang đánh vào hàng hóa mang từ nước ngoài về, và jiaeng xiang được áp dụng đối với các thuyền trở về từ Luzon nơi thường không có hàng hóa nào được mang về ngoại trừ đồng bạc mặt lý thuyết mà nói thì việc cho phép dân thường đi ra nước ngoài rõ ràng là một cải cách tích cực trong chính sách ngoại thương vào cuối thời Minh. Tuy nhiên nó đến quá muộn để đem lại lợi ích thực sự cho Trung Quốc. Với sự phát triển của rất nhiều mâu thuẫn nội tại giữa xã hội và tầng lớp thống trị kể từ giữa thời Minh, vương triều dần đi xuống và đã không có sức mạnh hoặc là tham vọng để tìm kiếm chính sách tích cực trên biển ở vào thời gian này. Việc cho phép người dân đi ra nước ngoài không có nghĩa rằng đó là sự mở cửa thị trường ngoài nước của Trung Quốc do chính nó khởi xướng như các nước phương Tây đã làm ở thời gian đó mà chỉ là hành vi bị động do sự tác động của xu hướng thương mại phi nhà nước. Việc nó đặt ra vô số giới hạn đối với những người dân ra nước ngoài chỉ ra rằng nó quan tâm tới sự an toàn hơn là mở ra thị trường ngoài nước và mong muốn đặt mọi thứ dưới sự kiểm soát của vương mại phi chính phủ ở vào cuối thời Minh đã phát triển ấn tượng bởi những người dân thường, những gì chính phủ làm đối với sự phát triển này chỉ đơn thuần là kiếm soát nó ở mức càng nhiều càng tốt để thu thuế. Tất nhiên, dưới tình trạng quản lý tồi tệ vào cuối Minh, đây không phải là nhân tố hay mà là nhân tố có lại, chính sách ngoại thương của nhà Minh trước sau như một có tính chất bảo thủ. Nó đã quan tâm tới sự an toàn của bản thân vương triều hơn là lợi ích kinh tế, thứ có thể thu được từ ngoại thương. Nó chưa bao giờ tự có khát vọng mở cửa thị trường ngoài nước thông qua khuyến khích mọi người đi ra ngoài và phát triển thương mại phi nhà nước. Thương mại triều cống, chủ yếu có hiệu lực vào đầu thời nhà Minh, đã thực sự được coi như là một phương tiện ngoại giao để thu lấy thanh thế cho vương triều, khía cạnh chính trị trong nó ưu thế hơn hẳn so với khía cạnh kinh giữa triều Minh, chủ yếu dưới thời vua Chính Đức 1506-1521, khía cạnh chính trị của chính sách ngoại thương đã bị làm yếu đi trong một thời gian khi nhà Minh thực sự cho phép các thuyền buôn nước ngoài không chỉ là các thuyền triều cống đến và bán hàng hóa của họ ở Trung Quốc sau khi đóng thuế với tỉ lệ khoảng 2/10. Những cải cách này đã nhanh chóng bị thay thế bởi lệnh cấm biển hoàn toàn trong triều vua Gia Tĩnh tiếp theo. Sau khi mở biển dưới thời vua Long Khánh các thuyền nước ngoài không gặp phải giới hạn nào khi đến Trung Quốc và những người dân thường được phép đi ra nước ngoài nhưng ở trong nội địa thì như chúng tôi đã nói ở trên, nó không có nghĩa rằng các vua nhà Minh đã thực thi chính sách tự do thương mại như các quốc gia phương Tây đã làm ở cùng thời gian thương nhân người nước ngoài buôn bán với Trung Quốc ở các cảng biển phải tiến hành buôn bán thông qua các cơ quan do chính phủ chỉ định, việc giao thương trực tiếp với người Trung Quốc bị nghiêm cấm. Và quan trọng hơn, việc cho phép mọi người đi ra nước ngoài không phải là chính phủ muốn mở rộng thị trường ngoài nước mà đơn giản chỉ là vì không thể ngăn cản người dân làm việc đó, tức là không có lựa chọn nào khác và vẫn có những quy định cấm đoán riêng rẽ đối với những người đi ra nước ngoài. Vì vậy chúng tôi phải nói rằng chính sách ngoại thương của nhà Minh về bản chất vẫn rất bảo thủ ngay cả sau khi mở biển ở vào giai đoạn Chính sách ngoại thương đầu nhà Thanh 1644-1840Tình hình mở cửa thương mại với các quốc gia nước ngoài vào cuối thời Minh kéo dài không lâu. Nó lại được thay thế bằng chính sách cấm biển vào đầu triều Thanh Mãn Châu vương triều thay thế nhà Minh thống trị Trung Hoa từ năm 1644. Trong những thập kỉ đầu của vương triều, nó đã phải dồn hết sức lực để chống lại các thế lực phản Thanh của những người Hán nhằm phục hưng vương triều đã bị phế truất. Bởi vì nhiều lực lượng Hán ở vào thời điểm đó tập hợp ở vùng duyên hải đông nam khi rút chạy khỏi lục địa và chiếm đóng các hòn đảo ven bờ coi chúng thành trì của họ, nhà Thanh tuyên bố cấm biển không lâu ngay sau vào Bắc Kinh năm 1644. Tuy nhiên lệnh cấm không thể tiến hành một cách có hiệu quả cho tới khi những mệnh lệnh nghiêm ngặt hơn được đưa ra năm 1661 khi quân đội Mãn Châu đánh bại Trịnh Thành Công Zheng Chenggong, lãnh tụ nổi tiếng nhất và quan trọng nhất của lực lượng phản Thanh ở vùng đông nam trong nửa sau triều vua Thuận Trị 1644-1661 ở lục địa và buộc ông ta cùng quân lính phải tháo chạy ra biển. Theo lệnh mới, tất cả mọi người sống ở vùng duyên hải phải rút lui một hai chục km vào đất liền sau khi phá hủy toàn bộ tài sản nhằm cô lập quân phản Thanh ở ngoài biển. Lệnh cấm trên biển được thực thi chặt chẽ đến độ vào những ngày biển động không có một chiếc thuyền nào từ đất liền được phép ra biển và tất cả các thuyền từ nước ngoài đều bị cấm vào các cảng trong đất liền. Trong thời gian đó, lục địa gần như ngừng tất cả các quan hệ thương mại với nước ngoài ngoại trừ quy mô giới hạn ở Thanh tái mở biển và cho phép người dân ra nước ngoài trở lại vào năm 1684, một năm sau khi vuơng triều Trịnh Zheng ở Đài Loan đầu hàng bởi cuộc tấn công mãnh liệt của hạm đội từ đất liền. Năm tiếp theo, bốn trạm hải quan được đặt ra ở Quảng Châu tỉnh Quảng Đông, Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến, Ninh Ba tỉnh Triết Giang và Tùng Giang tỉnh Giang Tô một cách tách biệt nhau để buôn bán với nước ngoài. Do đó, sau 40 năm cấm biển, quan hệ thương mại của Trung Quốc với nước ngoài cuối cùng cũng bắt đầu bình thường trở lại. Trong nửa sau triều vua Khang Hi 1662-1722, không chỉ các thuyền buôn nước ngoài có thể đến để buôn bán với Trung Quốc tại tất cả các cảng biển mở mà các hoạt động thương mại của các thương nhân Trung Hoa cũng phát triển nhanh chóng cho dù sự đi ra nước ngoài của họ vẫn đặt dưới sự cấm đoán nhất định. Thương nhân Trung Hoa cũng như những người đi ra nước ngoài sinh sống có thể thấy gần như là ở khắp nơi ở cả các quốc gia ở biển phía nam và biển Đông. Đặc biệt ở Đông Nam Á số lượng người Hoa từ các vùng duyên hải đông nam tham gia vào buôn bán hoặc sống ở đó thậm chí còn nhiều hơn cả thời kì cuối triều Minh. Người ta cho rằng chỉ ở Jakarta thôi, số lượng người Hoa sống ở đó vào thời điểm khi ấy đã vượt quá tình hình này cũng không duy trì lâu. Kể từ những năm cuối của triều vua Khang Hi, chính sách trên biển của chính phủ nhà Thanh đã trở nên bảo thủ, tự ti trở lại và nó đã khiến Trung Quốc dần dần bước chân vào tình trạng nhà nước đóng cửa nửa chừng đối với những mối giao thiệp quốc tế cho tới khi nó bị đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện 1840-1842. Sự thay đổi bắt nguồn từ mối lo ngại sâu sắc rằng lực lượcng phản Mãn Thanh ở trong nước vốn đã tồn tại thậm chí ngay cả khi người Mãn thống nhất toàn bộ quốc gia sẽ thông đồng với người Hán ở nước ngoài để tiêu diệt sự thống trị của nhà Thanh. Với số lượng người Hán đi ra nước ngoài sinh sống ngày càng nhiều và nhiều người trong số họ định cư ở nước ngoài bất chấp quy định rằng họ phải trở về nhà sau một thời gian nhất định, hoàng đế Khang Hi và vài cận thần nhận ra rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng. Người ta nói rằng vị hoàng đế này đã gửi các đặc vụ bí mật tới Luzon những năm sau đó khi được tâu trình rằng vài hậu duệ của vua Minh bị phế truất có thể vẫn sống ở đó. Mặc dù việc điều tra không có kết quả và vấn đề không được giải quyết nhưng nó đã nâng cao thêm sự cảnh giác của hoàng đế. Bởi vậy năm 1717, hoàng đế Khang Hi ra lệnh cấm những chiếc thuyền tới biển phía nam và đồng thời nhà Thanh ban hành một loạt các lệnh cấm khác nghiêm ngặt hơn đối với các thuyền ra biển và tăng cường kiểm soát tại các cảng bờ biển. Tất cả những người đã định cư ở nước ngoài phải trở về Trung Quốc trong vòng 3 năm và nếu kẻ nào dám vi phạm lệnh cấm cư trú ở nước ngoài một lần nữa kẻ đó sẽ bị dẫn độ về nước và bị xử tử. Mặc dù lệnh cấm đối với các con tàu đi tới biển phía nam được dỡ bỏ vào năm 1727 dưới sức ép mạnh mẽ từ trong triều đình và giới bình dân, lệnh cấm cư trú ở nước ngoài đối với người dân và lệnh cấm đối với những thuyền đi ra nước ngoài không hề giảm nhẹ mà ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn. Do lệnh cấm của chính quyền, thương mại của Trung Quốc với vùng biển phía nam thứ đã từng hưng thịnh trở nên tàn tạ kể từ thế kỉ bán với các thuyền nước ngoài tại các cảng biển duyên hải cũng được đặt dưới sự quản lý ngặt nghèo hơn trước đó. Chính quyền nhà Thanh mở 4 cảng biển để buôn bán với người nước ngoài trong những năm đầu sau khi mở biển. Nhưng chính sách này đã thay đổi dưới triều vua Càn Long 1736-1795 để dễ bề kiểm soát hoạt động của người nước ngoài trên đất Trung Quốc. Kể từ giữa thời Minh, thuyền nước ngoài tới Trung Quốc bằng đường biển đã không giới hạn trong các nước triều cống truyền thống mà còn đến từ các nước phương Tây xa xôi. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và sau đó là người Anh đã nối tiếp nhau tới phương Đông. Những người phương Tây tới phương Đông khi đó không phải chỉ là các thương nhân mà còn có cả cướp biển với những hạm đội tàu được trang bị đầy đủ. Kể từ khi những người phương Tây nổi lên trên biển Trung Hoa, họ liên tục quấy rối các cảng bờ biển cùng lúc họ buôn bán với Trung Quốc. Trong suốt thời gian đầu thời Thanh, từ nửa sau thế kỉ 17 tới nửa đầu thế kỉ 18 mặc dù các quốc gia thực dân sớm như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan đã lần lượt suy sụp, thực dân Anh đầy triển vọng đã trở nên ngày một mạnh hơn và đầy tham vọng. Thương mại của Anh với Trung Quốc dưới sự kiểm soát của các công ty Đông Ấn trong thời nhà Thanh bắt đầu từ thời hoàng đế Khang Hi và phát triển đều đặn từ những năm 1720. Trước hết, các thương nhân Anh chỉ buôn bán với người Trung Quốc ở Quảng Châu Canton. Nhưng từ năm 1755 và trong hai năm tiếp theo, chủ yếu là do không bằng lòng với sự cấm đoán thương mại ở Quảng Châu cũng như thuế xuất nhập khẩu của hải quan Quảng Đông đánh quá nặng, công ty Đông Ấn cũng đã gửi các thuyền tới Ninh Ba nơi môi trường buôn bán tốt hơn ở Quảng Châu và gần vùng sản xuất các mặt hàng chủ lực hơn. Người Anh mua ở Trung Quốc lụa, trà, bôngNhà Thanh cảm thấy cực kì lo lắng với việc người Anh thay đổi thương cảng bởi vì nó không chỉ làm giảm thu nhập của hải quan Quảng Đông mà nó còn dẫn tới sự định cư của người nước ngoài tại vùng duyên hải khác và tạo nên một Macao nữa -thứ hoàng đế cho rằng nguy hiểm nhất. Trước hết hoàng đế cố gắng chặn các thuyền của thương nhân Anh đi tới Ninh Ba bằng việc tăng thuế tại hải quan Triết Giang nhưng việc này thất bại. Vì vậy vào mùa đông năm 1757, hoàng đế tuyên bố rằng vào đầu năm tiếp theo, tất cả những thuyền buôn bán với Trung Quốc chỉ có thể neo đậu ở Quảng Đông và không thuyền nào được phép vào Ninh Ba. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong chính sách ngoại thương vào đầu thời nhà Thanh thứ có nghĩa rằng cánh cửa mở ra với bên ngoài đã khép lại một nửa dưới triều vua Khang thời gian đó, chính quyền nhà Thanh tăng cường kiểm soát các hoạt động của người nước ngoài tại các cảng thương mại. Trong quản lý thương mại của người nước ngoài tại các cảng thương mại, nhà Thanh tiếp tục thực thi luật lệ của các cơ quan được bắt đầu từ thời nhà Minh. Theo quy định, tất cả các thương nhân người nước ngoài phải tiến hành công việc làm ăn của mình với một số thương nhân Trung Hoa đặc biệt do nhà Thanh chỉ định và không được buôn bán trực tiếp với người dân thường. Cho dù họ bán hay mua thì họ cũng chỉ được phép trao đổi với các thương nhân hoặc người môi giới do nhà Thanh chỉ định. Ngay vào những năm nhà Thanh mở các cảng biển cho tàu nước ngoài vào buôn bán, các chính quyền địa phương bắt đầu lựa chọn các nhân viên trong số các thương nhân để tiến hành việc buôn bán các món hàng nước ngoài. Ở Quảng Châu, những nhân viên này thường được gọi là thương nhân Hang bởi vì phường hội của họ được gọi là Hang cách gọi cũ của Hong hoặc Yanghuo Hang. Số lượng các thương nhân Hang ở thời điểm cao nhất lên tới 26 hoặc hơn và thấp nhất là 4 nhưng thông thường trong lịch sử người ta gọi là 13 Hang. Các thương nhân Hang lập ra một tổ chức gọi là Gong Hang Co-hong năm 1720, thứ tan rã trong năm tiếp theo nhưng lại được phục hồi năm 1760. Trong những năm Quảng Châu đóng vai trò như cảng mở chính dành cho người nước ngoài trước cuộc Chiến tranh thuốc phiện, Gong Hang là trung gian qua đó các thương nhân phương Tây có thể buôn bán với Trung Quốc và thương nhân Hang được trao cho độc quyền tuyệt đối trong việc buôn bán với thương nhân nước ngoài. Gong Hang và các thành viên của nó thậm chí còn đảm đương việc thu thuế và nợ cho chính phủ và trong tất cả các hoạt động với nước ngoài nó đóng vai trò làm trung gian giữa chính quyền địa phương và người nước ngoài bởi vì trong thời kì đó người nước ngoài không được phép liên lạc với các quan chức Trung Quốc trực khi đóng cửa tất cả các cảng thương mại trừ Quảng Châu, chính quyền Thanh đã ban hành nhiều luật lệ để hạn chế các hoạt động của người nước ngoài ở Trung Quốc. Theo các luật lệ, quy định này, thương nhân người nước ngoài phải giới hạn nơi cư trú tại nơi được chỉ định trong thời gian họ ở Trung Quốc và phải chịu một loạt các chế định khác đối với hoạt động và cư xử của họ nếu như họ không muốn bị trục xuất và mất đi lợi nhuận thương Quảng Châu, nơi được chỉ định dành cho người nước ngoài cư trú là vùng đất kéo dài bên ngoài thành phố, nơi dưới sự giúp đỡ của Gong Hang, các thương nhân đến từ nước ngoài đã xây dựng các căn nhà gọi là shang guan từ này có nghĩa nhà máy trong cảm quan cũ của cư dân hoặc là có nghĩa nơi ở của người đại diện cùng phòng tài vụ, kho hàng, kho bạc và nhà ở. Trước năm 1840, có 59 shang guan ở Quảng Châu và có hơn một nửa trong số đó thuộc về các thương nhân người Anh. Tất cả các thương nhân người nước ngoài tới Quảng Châu buôn bán phải sống trong chính Shang guan của họ và số lượng những người nước ngoài đi theo không được quá 5 người. Không một người phụ nữ hay trẻ em hoặc loại vũ khí nào được phép mang tới Shang guan. Tất cả các thương nhân nước ngoài phải rời Trung Quốc hoặc trở lại Macao ngay khi họ kết thúc việc buôn bán, không một ai trong số họ được phép ở lại Quảng Châu qua mùa đông. Khi sống trong Shang guan, người nước ngoài bị cấm liên lạc với người Trung Quốc ngoại trừ các thương nhân Hang và các phiên dịch viên của họ, cấm dời Shang guan nếu không có các thương nhân Hang hoặc các phiên dịch viên đi kèm khi cần thiết, cấm thuê mướn các đầy tớ người Trung Quốc, cấm ngồi kiệu. Người nước ngoài không được phép liên lạc trực tiếp với các viên chức người Trung Quốc nếu có gì trình bày thì điều này phải được thực hiện thông qua các thương nhân Hang. Thương nhân Hang phải giám sát và chăm sóc mọi thứ đối với người nước ngoài trong thời gian họ ở đây, từ những điều thiết yếu của đời sống tới thái độ cư xử và các hoạt động của họ và họ bị cấm mượn tiền của người nước ngoài. Các quy định cũng quy định rằng tất cả các thuyền chiến nước ngoài đóng vai trò hộ tống các thuyền buôn không được phép vào Bogue và các thuyền buôn vào hoặc dời Bogue được đặt dưới sự kiểm soát toàn diện của các hoa tiêu và nhà nhà tư sải mại bản Trung Quốc những người đã đăng kí với cơ quan hành chính địa phương của Trung Quốc ở Macao và đã nhận được giấy phép, nếu có bất cứ sự buôn hậu hay điều phi pháp nào xảy ra trên thuyền, người chủ thuyền sẽ bị trừng phạt. Mặc dù những quy định, luật lệ tầm thường tẻ ngắt này trên thực tế chỉ là trên giấy trong nhiều trường hợp, chúng đã thực sự phản ánh sự lo lắng, cảnh giác của các vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài. Bằng việc tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về chính sách ngoại thương trong đầu thời nhà Thanh, chúng ta phải nói rằng trong phần lớn thời gian của hơn hai trăm năm này, Trung Quốc đã là nhà nước đóng kín hoặc đóng kín một nửa đối với thế giới bên ngoài ngoại trừ một vài thập kỉ trong giai đoạn sau của triều vua Khang Hi. So sánh với triều Minh, thái độ của các ông vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài trở nên bảo thủ hơn. Vì vậy việc đánh giá chính sách đối ngoại của đầu triều Thanh như là chính sách đóng cửa về cơ bản là sát với tình hình thực do thực thi chính sách ngoại thương bảo thủ trong thời Minh và đầu thời những gì đã chỉ ra ở phần đầu bài viết này, từ nhà Minh tới đầu nhà Thanh, chính xác hơn là từ cuộc phát kiến địa lý vào giữa thời Minh cho tới chiến tranh thuốc phiện, là thời kì chủ nghĩa tư bản trưởng thành ở Tây Âu và mở rộng ảnh hưởng của nó tới toàn bộ thế giới thứ đã dẫn tới những sự thay đổi vĩ đại trong trật tự thế giới truyền thống. Đó chính thời điểm mà sức mạnh hải quân, các nền văn minh ở nhiều phần trên thế giới, vốn tách biệt nhau bởi không gian địa lý bắt đầu trao đổi, cạnh tranh làm cho thế giới sau đó xích lại gần hơn. Trong thời kì này, những quốc gia phấn đấu cho quyền lực biển và chú tâm vào thương mại, buôn bán trên biển đã dẫn đầu con sóng lịch sử và tiến về phía trước. Người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Hà Lan và sau này là người Anh tất cả đã chộp lấy quyền lực trên biển và phát triển thương mại biển. Nhưng Trung Quốc, một quốc gia có nền văn minh lâu đời vốn không thua hề thua kém các nước phương tây cả về kĩ thuật hàng hải và các nhân tố bên trong để phát triển thương mại biển đã chống lại dòng chảy đó và thực thi một chính sách bảo thủ hạn chế thậm chí cấm buôn bán với nước ngoài. Vậy thì, điều này đã diễn ra như thế nào? Tác giả nghĩ rằng ít nhất lý do nằm ở các khía cạnh sau đây truyền thống lịch sử, văn hóa của Trung Quốc, thực tế chính trị mà hai vương triều đã đối mặt vào thời điểm đó, tình hình phát triển kinh tế trong lịch sử Trung Quốc và cuối cùng là hệ thống kinh tế tương đối toàn diện của Trung Quốc với tư cách là một nước Ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, lịch sử Trung QuốcCathaysian, chủ thể mang trên mình nền văn minh Trung Hoa cổ xưa, là một quốc gia chuyên về trồng trọt. Văn minh Cathaysian, ngay từ khi bắt đầu, đã có đặc trưng là nền văn minh nông nghiệp. Nó coi trọng sự phát triển nông nghiệp và coi trồng trọt như là một nguồn của cải xã hội trong khi mặt khác nó coi khinh thương mại khi coi nó là một nhân tố không có gì là quan trọng đối với nền kinh tế. Tư tưởng trọng nông ức thương được đẩy mạnh trong suốt thời kì Chiến Quốc 475-221 trước CN đã trở thành xu hướng chính của tư tưởng kinh tế Trung Hoa và được các ông vua tin tưởng và theo đuổi xuyên suốt toàn bộ lịch sử Trung Quốc kể từ từ nhà Tần và nhà Hán 221 sau CN. Vào cuối thời kì phong kiến, với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và thương mại tư tưởng coi thường thương mại đã bị thử thách ở một vài khu vực, nhưng thế thượng phong của nó trong giới nho sĩ và chính sách kinh tế của nhà nước thì không hề thay đổi. Các ông vua của triều Minh-Thanh tiếp tục duy trì chính sách coi nông nghiệp là nền tảng kinh tế trong khi thương mại chỉ được coi đóng vai trò phụ trong nền kinh tế thứ cần thiết nhưng không đáng phải khuyến khích. Trong tư tưởng truyền thống Trung Hoa, thương mại và thương nhân thường bị cho là có liên quan tới với việc bán đắt với giá cắt cổ và hưởng thụ cuộc sống xa hoa vô độ. Vì thế sự phát triển quá mức của thương mại không chỉ gây hại cho kinh tế nông nghiệp thông qua việc tiêu tốn một số lượng lớn nhân lực của việc trồng trọt mà còn làm hư hỏng xã hội nói chung. Tư tưởng trọng nông ức thương truyền thống của Trung Hoa rõ ràng đã đi ngược lại làn sóng tranh giành thương mại trên biển lúc đương thời. Kể từ phát kiến địa lý, chủ nghĩa trọng thương đã trở thành thịnh hành trong giới kinh tế Tây Âu. Tất cả các quốc gia biển ở đó đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quay vòng hàng hóa và nhập khẩu kim loại quý đối với sự thịnh vượng của quốc gia ở thời kì này. Tất cả các nước đều chủ động hỗ trợ phát triển thương mại trên biển thông qua sử dụng sức mạnh quốc gia. Thương mại thuộc địa của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, kỉ nguyên người đánh xe ngựa trên biển của Hà Lan và sự thành lập của đế chế Anh đều là kết quả của chủ nghĩa trọng thương và chính sách quốc gia. Tuy nhiên, trong kỉ nguyên như vậy, các hoàng đế Trung Quốc vẫn chủ trương ức thương. Vì vậy rõ ràng là họ không có khả năng thực thi một chính sách ngoại thương tích cực để khuyến khích các thương nhân đi ra ngoài và mở rộng thị trường cho quốc gia. Khái niệm truyền thống Hoa Di của Trung Hoa cũng là một lý do quan trọng. Khái niệm này là thái độ chính trị văn hóa tự coi mình là trung tâm khẳng định rằng văn minh Trung Hoa là ưu việt hơn các nước khác. Mặc dù kiểu thái độ này là đặc điểm chung của tất cả các nền văn minh cổ tương đối phát triển nói chung, nhưng do vị trí địa lý đặc biệt của Trung Quốc tách biệt với các nền văn minh cổ đại khác bởi rào cản tự nhiên bốn mặt, cũng như vị trí thuận lợi của văn minh Trung Hoa và thế giới của nó mà chủ nghĩa coi mình là trung tâm của người Trung Quốc rất mạnh và từ đó Trung Quốc đã không chỉ tạo ra một khái niệm có tính kết hợp và hệ thống là Hoa Di mà liên quan đến khái niệm này, họ đã phát triển thành một hệ thống tính cách và nguyên tắc trong giải quyết các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Theo khái niệm này, Trung Quốc là trung tâm của thế giới và hoàng đế Trung Quốc là Thiên tử thay trời cai trị toàn bộ thế giới. Bên ngoài Trung Quốc nơi các hoàng đế trực tiếp cai trị là những vùng do Man Di sinh sống ở những quốc gia dã man. Mặc dù tất cả các quốc gia này đều hung dữ và hoang dã, hoàng đế vẫn luôn mong muốn tặng quà cho họ và coi họ như chư hầu nếu như họ có nguyện vọng muốn được khai hóa và công nhận sự cai trị của họ thông qua triều cống triều đình. Lý tưởng cao nhất của hoàng đế Trung Quốc cổ đại là thành lập một trật tự thế giới trong đó ông ta là người cai trị toàn bộ các quốc gia trên thế nhiên chủ nghĩa coi mình là trung tâm của Trung Quốc về bản chất không có nghĩa là hiếu chiến hoặc dũng cảm. Nó nhấn mạnh sự ưu việt của Trung Quốc trên thế giới nhưng nó chưa bao giờ thiên về bành trướng và chưa bao giờ muốn ép buộc các nước khác chấp nhận một thế giới thống nhất đặt dưới sự cai trị của Trung Quốc. Nó diễn tả sự khuất phục của các nước khác dưới đạo đức và sức mạnh kiểu mẫu của Trung Quốc. Do đó nó đặt trọng tâm vào việc bảo vệ nền văn minh Trung Hoa và duy trì trật tự bên trong chống lại những ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài hơn là mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc tới thế giới. Đây là dấu hiệu thực sự để phân biệt Trung Quốc với các nước khác. Từ cách nhìn của các hoàng đế Thiên Triều, trật tự cai trị bên trong là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, nó là thứ đã làm nên Trung Quốc kể từ khi nó trở thành quốc gia văn minh. Vì vậy, nó hoàn toàn cần thiết để các hoàng đế thực thi mọi biện pháp có thể để chống lại sự đầu độc của những người dã man bên ngoài. Chỉ khi các quốc gia bên ngoài có mong muốn quan sát phong tục và hệ thống lễ nghi Trung Hoa, thứ đã tạo ra trật tự cai trị bên trong Trung Quốc, họ mới được chấp nhận và đón tiếp chu đáo. Nhưng nếu họ dám thay đổi những phong tục và hệ thống này họ sẽ bị trục xuất và cấm niệm Hoa Di đã không gây trở ngại cho việc Trung Quốc mở rộng ra ngoài thế giới trong buổi đầu lịch sử, đặc biệt vào thời kì mà nó là quốc gia hùng mạnh như dưới thời nhà Hán 206 Đường 618-907. Tại thời kì đó, sự hùng mạnh của quốc gia đã làm cho các hoàng đế của Trung Quốc có đủ tự tin và mở rộng liên lạc với thế giới bên ngoài, cảm giác ưu việt về Thiên Triều và văn hóa Trung Hoa có lẽ đã ở mức cao nhất về mặt tâm lý. Nhưng từ thế kỉ 16, đặt biệt là từ sau thế kỉ 17, nền văn minh Trung Hoa phát triển cao đã phải đối mặt với một nền văn minh mới chưa từng nghe thấy do những người châu Âu mang đến với tàu chiến, thứ mà ít nhất xét ở mức độ nguyên liệu nó không hề thua kém Trung Quốc mà ở nhiều khía cạnh dường như nó còn vượt xa cả Trung hình này đã làm chao đảo Thiên Triều của các hoàng đế. Vì vậy như một phản ứng bản năng đối với ảnh hưởng phương Tây, thái độ của các hoàng đế đối với thế giới bên ngoài bắt đầu ngày càng trở nên tiêu cực. Tất nhiên họ chưa bao giờ mong muốn thừa nhận đứng ngang bằng với các quốc gia phương Tây không chỉ vì người phương Tây vẫn được coi là những người bán khai mà còn vì những nước phương Tây buôn bán với Trung Quốc vẫn tiến hành triều cống. Nhưng đây cũng chỉ nhằm mục đích bảo vệ lòng tự trọng của Thiên Triều ở vẻ ngoài và về mặt tâm lý mà thôi. Trên thực tế sự tự tin của Thiên Triều về sức mạnh của mình đã suy sụp. Bởi vậy, các vua ở thời Minh -Thanh đã chuyển vị trí của tổ tiên họ là mở ra thế giới sang bảo vệ văn minh Trung Hoa và trật tự cai trị khỏi ảnh hưởng của nước ngoài bằng chính biên giới của nó. Đây là lý do cơ bản giải thích tại sao các hoàng đế trong thời kì này nhấn mạnh và coi trọng việc phân ranh giới giữa người Trung Quốc và người nước ngoài đồng thời thực thi chính sách ngoại thương bảo Ảnh hưởng của thực tế chính trịẢnh hưởng của thực tế chính trị đối với chính sách ngoại thương cũng không thể bỏ qua bởi vì mục đích đầu tiên của bất cứ vương triều nào khi làm chính sách cũng là đảm bảo sự cai trị an toàn của mình. Lý do trực tiếp của chính sách cấm biển tiến hành trong thời kì đầu và giữa nhà Minh là sự quấy rối không ngừng của hải tặc Nhật Bản ở vùng viển đông nam, thứ như chúng ta đã đề cập ở trên, đã bắt đầu từ ngay những năm đầu sau khi thành lập vương triều Minh và không hề chấm dứt cho tới giữa thế kỉ 16. Vấn đề nghiêm trọng của mối đe dọa xâm lược của người Mông Cổ ở phía bắc trong cùng thời gian cũng tạo ra chính sách nói trên. Vào đầu triều Minh, nhà Nguyên vốn rút lui vào sa mạc phía bắc Vạn Lý Trường Thành sau khi bị Chu Nguyên Chương đánh bại vẫn có trong tay một bộ phận quân lính và chưa bao giờ từ bỏ nỗ lực tái kiểm soát toàn bộ quốc gia. Về sau mặc dù Mông Cổ bị chia tách ra làm nhiều phần và nhà Nguyên Bắc Nguyên cuối cùng cũng biến mất vào đầu thế kỉ 15, nhưng mối đe dọa xâm lược đến từ người Mông Cổ không hề mất đi cho tới khi một thỏa thuận hòa bình giữa Minh và Tartar Khan dưới triều vua Long Khánh 1567-1572 được xác lập. Bởi vì phải hướng sự tập trung vào sự xâm lược ở phía bắc trong thời kì này, thứ được các nhà sử học cho rằng đây là một trong hai sự xâm lược của nước ngoài trong suốt thời nhà Minh, một cách tự nhiên đã làm cho nhà Minh không có khả năng thực thi một chính sách chủ động trong việc phòng thủ bờ biển chống lại hải tặc Nhật Bản. Sự cấm biển của nhà Minh vào cuối vương triều là thực tế nhằm thanh toán vấn đề hải tặc Nhật Bản đồng thời cũng là nhằm giải quyết vấn đề xâm lược của người Mông Cổ ở phía cấm biển của nhà Thanh trong những thập kỉ đầu thống trị của vương triều như một quyền lực quốc gia và việc duy trì hạn chế người dân tự do đi ra nước ngoài và sự hạn chế nghiêm ngặt tiếp xúc giữa người nước ngoài với người dân thường Trung Quốc tại các cảng biển sau khi từ bỏ lệnh cấm là bắt nguồn từ sự quan tâm tới chính trị trong nước, đó là nhằm mục đích loại bỏ mối liên hệ giữa các lực lượng phản Thanh ở lục địa và trên biển. Triều Thanh được lập nên bởi người thiểu số, những người cư trú ở phần đất xa xôi hơn phần lớn những người mà họ cai trị. Người Hán có số lượng lớn gấp vài trăm lần người Mãn Châu. Trước triều Thanh, ngoại trừ triều Nguyên được lập ra bởi người Mông Cổ trong một thời gian ngắn, không có quyền lực chính trị với tư cách như là một quốc gia thống nhất nào được tạo ra bởi người thiểu số ở Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, triều Mãn Thanh từ ngày đầu được thành lập và kiểm soát toàn bộ quốc gia đã chú tâm lớn tới việc bảo vệ vương triều trước sự kháng cự của người Hán, thứ không hề chấm dứt trong suốt thời gian vương triều Thanh tồn tại. Các vua Thanh biết rằng có hàng trăm ngàn người Hán sống ở Đông Nam Á, cách xa nơi họ có thể vươn quyền lực tới, và triều đình Thanh luôn coi những người Hán này là lực lượng phản Thanh tiềm tàng. Đó chính là lí do khi hoàng đế Khang Hi nói rằng triều Thanh phải thực thi những biện pháp cấm thương mại biển để ngăn chặn bất kì sự liên kết có thể nào giữa các lực lượng phản Thanh trong và ngoài Lý do kinh tếPhân tích từ khía cạnh kinh tế thấy rằng lí do thứ nhất mà trong suốt triều Minh và đầu triều Thanh, toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp truyền thống tự cung tự cấp hoặc bán tự cung tự cấp. Thực tế là trong thời gian này, kinh tế thương nghiệp đã tiến triển lớn với sự phát triển độc lập của thủ công nghiệp và thương mại nông nghiệp và mầm mống tư bản chủ nghĩa đã nổi lên kể từ giữa triều Minh nhưng tất cả những sự thay đổi này chỉ xảy ra ở một vài vùng và ở một vài lĩnh vực của nền kinh tế. Vào thời gian đó, động lực của việc mở cửa Trung Quốc đối với các mối quan hệ thương mại quốc tế phần lớn đến từ các tỉnh hưng thịnh ở vùng Đông nam nơi do sự phát triển cao về kinh tế thương nghiệp trong nông nghiệp và thủ công nghiệp thực sự cần tới thị trường ngoài nước nhất. Nhưng ở phần lớn hơn của quốc gia, như ở phần lớn các tỉnh trong đất liền bởi vì nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp hay bán tự cung tự cấp vẫn còn chiếm vị trí ưu thế cho nên không có yêu cầu cấp bách nào đối với thị trường ngoài nước. Bởi lý do này, bất cứ khi nào có tranh luận trong triều đình về việc mở cửa buôn bán với nước ngoài, tiếng nói ủng hộ cấm biển luôn chiếm ưu thế. Những ý kiến trái ngược khi đó phần lớn đến từ các quan chức quản lý các tỉnh phía Đông nam hoặc những người có quê ở đó. Trước những ý kiến mạnh mẽ đòi cấm biển hay đặt ngoại thương dưới những quy định cứng nhắc, ý kiến của họ khó có thể được chấp nhận trong nhiều trường hợp. Bên cạnh đó, điểm khởi đầu cho luận điểm của họ đối với chính sách mở cửa biển phần lớn là lợi nhuận từ thuế và sinh nhai của người dân ở vùng duyên hải, nhưng hiếm khi họ thảo luận về vấn đề từ tầm nhìn coi việc mở biển ở tầm quốc gia như là một chính sách trọng thương ở các quốc gia phương Tây. Điều này không nói lên điều gì ngoài sự yếu kém của kinh thế thương nghiệp của quốc gia tại thời điểm hai, chúng ta phải thừa nhận rằng Trung Quốc là một quốc gia lớn với nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống kinh tế quốc gia hợp nhất thứ có thể tạo ra phần lớn sản phẩm nó cần Nó đã có ít sự phụ thuộc vào nền kinh tế của thế giới bên ngoài. Trên thực tế, Trung Quốc trong ngoại thương khi đó chủ yếu đã đóng vai trò là nước xuất khẩu các sản phẩm thủ công và nông nghiệp nội địa chứ không phải là nước nhập khẩu các sản phẩm của nước ngoài. Nó xuất đi chè, tơ, lụa, gốm, vải dệt tay, hợp kim đồng-niken, đường, giấy, dược liệu, và nhập khẩu chủ yếu các thứ xa xỉ phẩm của nước ngoài ngoại trừ đồng của Nhật Bản, gạo của Xiêm và một số lượng nhỏ các sản phẩm công nghiệp phương Tây. Do lý do này, nó đã có được một cán cân ngoại thương mong muốn và xuất khẩu một số lượng lớn bạc hàng năm cho tới đầu thế kỉ 19 khi thương nhân người Anh bắt đầu vận chuyển thuốc phiện tới với số lượng lớn. Bất chấp ngoại thương có vai trò quan trọng như thế nào đối với một số vùng và một số ngành kinh tế của quốc gia tại thời điểm đó cũng như đối với những người có liên quan đối với toàn bộ quốc gia, nền kinh tế quốc gia và phần lớn dân số ảnh hưởng của ngoại thương vẫn rất yếu. Mức độ cao của hệ thống kinh tế tự cung tự cấp đã làm cho các vua triều Minh và các vua đầu triều Thanh nghĩ rằng không cần thiết phải đánh giá cao ngoại thương và luôn coi nó như là một đặc ân ban cho các quốc gia nước ngoài. Đó là những gì mà hoàng đế Càn Long đã nói trong lá thứ ông ta gửi cho vua Geogre III của nước Anh năm 1793 khi một đoàn quan chức ngoại giao do huân tước Macartney được phái tới Trung Quốc để hỏi về việc mở rộng mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, Thiên triều có thể sản xuất mọi thứ và không cần phải nhập thứ gì của nước ngoài. Nhưng do trà, gốm và lụa do Thiên triều sản xuất là cần thiết với các nước ở biển tây cũng như là các ngươi, để chứng tỏ sự hiểu biết, lòng cảm thông và ban tặng lòng nhân từ bao la của Thiên triều tới tất cả thần dân, chúng ta đã lập ra các công ty thương mại Yang hang ở Macao để đáp ứng nhu cầu của các ngươi. Thông qua lời nói nổi tiếng của hoàng đế được dẫn ra ở trên, một mặt chúng ta cảm nhận được sự kiêu ngạo và ngu dốt của ông ta đối với thế giới bên ngoài nhưng mặt khác những gì ông ta nói ở trên không phải hoàn toàn là vô lý. Đó là bởi vì Trung Quốc ít phụ thuộc vào ngoại thương khi nó là một quốc gia khổng lồ với hệ thống kinh tế quốc gia hợp nhất và khi phải lựa chọn giữa đạt được lợi ích thương mại và giữ gìn sự an toàn quốc gia, nhà Minh và các vua đầu nhà Thanh đã luôn dành ưu tiên cho lựa chọn thứ quả lịch sử của chính sách ngoại thương bảo thủ trong thời Minh và đầu thời kỉ nguyên của các cuộc phát kiến địa lý và các cuộc bành trướng thuộc địa của các quốc gia phương Tây bắt đầu vào giữa thế kỉ 15 và 16, Trung Quốc vẫn là một quốc gia mạnh trên thế giới và do lãnh thổ rộng lớn cùng dân số đông đúc, nó rõ ràng là quốc gia mạnh nhất trên thế giới ở thời điếm đó. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu bài báo này, đó cũng chính là thời điểm Trung Quốc bắt đầu đi xuống. Chính sách trên biển ngu xuẩn của nhà Minh và các vua đầu nhà Thanh đã làm cho Trung Quốc mất đi cơ hội để cạnh tranh với các quốc gia phương Tây và tiếp tục duy trì vị trí tiên phong trên thế người phương Tây bắt đầu tiến hành các cuộc phát kiến địa lý, Trung Quốc không phải là quốc gia không có khả năng kĩ thuật để tiến hành các cuộc thám hiểm trên biển. Ngay khi dưới thời nhà Tống 960-1279, Trung Quốc đã phát triển kĩ nghệ đóng tàu tiên tiến có thể đóng được rất nhiều loại thuyền vượt biển thích hợp với nhiều tình huống hàng hải khác nhau và lần đầu tiên trên thế giới nó vận dụng la bàn để đi biển. Vào đầu thời Minh, từ 1405 tới 1433, hạm đội khổng lồ của Trung Quốc do Trịnh Hòa chỉ huy đã đi vòng qua biển Nam Trung Hoa và eo Malacca, vào Ấn Độ Dương và đi tới tận bờ biển châu Phi trong một số cuộc viễn chinh. Chuyến đi của Trịnh Hòa chứng minh rằng Trung Quốc ở vào thời điểm đó có lực lượng thủy quân mạnh với kĩ năng đóng tàu và kĩ thuật đi biển tiên tiến và ở khía cạnh kĩ thuật thì thế giới vẫn không đuổi kịp thậm chí vào cả nửa thế kỉ sau khi những nhà hàng hải châu Âu như Diaz, Columbus và Da Gama bắt đầu các cuộc phát người phương Tây bắt đầu các cuộc phát kiến, Trung Quốc cũng không hề thiếu động lực kinh tế đối với việc mở biển buôn bán. Kinh tế thương nghiệp vào giữa triều Minh đã phát triển với tỉ lệ không ngờ. Kể từ giữa những năm 1400, với sự tăng trưởng nông nghiệp hàng hóa và thủ công nghiệp cá thể độc lập, sự phát triển của thương mại đã không chỉ đặt ra yêu cầu đối với thị trường nội địa mà còn đặt ra đối với thị trường ngoài nước. Đặc biệt ở các tỉnh duyên hải miền đông nam như Triết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, nơi người dân có truyền thống buôn bán và sống ở nước ngoài, cùng với việc ngày càng có nhiều người đi ra nước ngoài bất chấp lệnh cấm của chính phủ, buôn lậu trên biển bắt đầu trở nên rầm rộ từ cuối những năm 1400. Tại thời điểm đó, dấu vết của người Trung Hoa có thể tìm thấy gần như là ở mọi ngóc ngách của Đông Nam vậy, sau một thời gian dài kể từ các cuộc phát kiến của người Châu Âu, Trung Quốc đã có tất cả những điều kiện cần thiết để tiến hành viễn chinh trên biển, thứ mà nó cần chỉ là chính sách khuyến khích từ chính quyền. Nếu triều Minh làm như vậy, có thể lịch sử tiếp theo sẽ phải viết lại. Nhưng thực tế rằng dưới chính sách không hoạt động ở xa tự ti và bảo thủ của các vua giữa triều Minh được tiến hành sau khi hạm đội của Trịnh Hòa kết thúc chuyến đi cuối cùng tới biển Tây vào năm 1433, Trung Quốc không chỉ từ bỏ các cuộc viễn chinh chính thức trên biển mà còn tiến hành chính sách cấm biển nghiêm ngặt đối với những người đi ra nước ngoài. Tiếp theo đó, như là nạn nhân của chính sách ngu xuẩn này, Trung Quốc đã mất đi cơ hội quý giá đi trước người phương Tây trong việc tìm kiếm thị trường ngoài nước trong thế kỉ 15 và một nửa thế kỉ sau khi những người châu Âu bắt đầu các cuộc viễn chinh trên biển, Trung Quốc đã chỉ còn là kẻ đứng nhìn thay vì là đối thủ cạnh tranh như lẽ ra phải đầu thế kỉ 16 cũng vẫn là thời gian quý giá đối với Trung Quốc trong việc mở ra các mối quan hệ thương mại trên biển. Trong thời gian này, trong số các quốc gia châu Âu mới chỉ có Bồ Đào Nha tới biển Tây Thái Bình Dương và đóng vai như là đối thủ tiềm năng của Trung Quốc, kẻ đóng vai trò đi đầu trong cấu trúc truyền thống của các mối quan hệ quốc tế ở đó. Người Bồ Đào Nha đi vòng qua mũi Hảo Vọng và tới phương Đông vào cuối thế kỉ 15. Nhưng từ thời điểm này trở đi, trong khoảng 50 năm, phạm vi thiết lập các thuộc địa và tìm kiếm các mối quan hệ thương mại ở phương Đông bị giới hạn tới Ấn Độ Dương và các quần đảo ở nam Thái Bình Dương. Nó đã không thâm nhập ảnh hưởng tới Đông Á cho tới những năm 1540-1550 khi nó thành lập cứ điểm thương mại ở Nhật Bản Kyushu và Trung Quốc Macao. Nhưng Trung Quốc cũng đã đánh mất cơ hội này. Ngay vào những năm 1510, triều Minh bắt đầu tiếp xúc với người Bồ Đào Nha. Lần đầu tiên là vào năm 1513 khi một thương nhân tên là Jorge Alvares tới Tunmen, tỉnh Quảng Đông và ở đây một thời gian ngắn. Sau đó vào năm 1517, một phái đoàn chính thức do vua cử đã tới nhằm thiết lập quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Nhưng triều đình nhà Minh đã không hoặc không muốn hiểu tín hiệu đến thăm của những người phương Tây ở mức độ tối thiểu. Họ đã coi những người mới đến này như những thương nhân và sứ thần triều cống truyền thống. Do không bằng lòng với cách cư xử của người Bồ Đào Nha ở Trung Quốc và việc nước họ chiếm đóng Macao trước đó, nhà Minh đã trục xuất phái đoàn và bắt giữ người chỉ huy là Tome Pires vào năm 1522. Hai năm sau, như chúng ta đã biết, nhà Minh tuyên bố cấm biển nghiêm ngặt và đóng các cảng thương mại dành cho người nước ngoài do sự quấy rối của hải tặc Nhật. Khi nhà Minh tái mở cửa dưới triều vua Long Khánh năm 1567, thế giới bên ngoài xung quanh Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều. Từ giữa những năm 1500 tới đầu thế kỉ 17, không chỉ người Bồ Đào Nha đã mở rộng quan hệ thương mại từ Nam Thái Bình Dương tới phần lớn các phần thuộc Nam Á và Đông Á mà cả người Tây Ban Nha và người Hà Lan theo sau cũng tới phương Đông để tranh giành vị trí của Bồ Đào Nha trong buôn bán với phương Đông. Người Tây Ban Nha đến phương Đông từ phía Tây qua Philippines và thiết lập con đường tơ lụa trên biển giữa Mexico và Manila không lâu sau khi họ chiếm Luzon năm 1565. Họ cố gắng buôn bán với Trung Quốc một cách trực tiếp và gửi một phái đoàn ngoại giao tới Bắc Kinh năm 1580 nhưng phái đoàn bị giữ lại tại Quảng Châu và gửi trả lại Manila. Sau đó người Tây Ban Nha phần lớn buôn bán với người Hoa ở Manila và vận chuyển hàng hóa Trung Hoa từ đó tới Mexico dọc theo con đường tơ lụa trên Thái Bình Dương. Người Hà Lan tới Châu Á từ đầu thế kỉ 17. Họ cũng cố gắng tiếp xúc với Trung Quốc nhưng bị ngăn cản bởi người Bồ Đào Nha, những người đã chiếm đóng Macao từ năm 1557. Sau khi đuổi khỏi quần đảo Bành Hồ, nơi họ chiếm từ năm 1622, bởi quân Trung Quốc năm 1624, Hà Lan bắt đầu xâm chiếm Đài Loan và chiếm đóng toàn bộ đảo này năm 1642. Bởi vậy khi nhà Minh dỡ bỏ lệnh cấm biển và tái mở cửa, Trung Quốc đã phải đối mặt với một thế giới rất khác so với trước đó. Tại thời điểm này, không chỉ tất cả các con đường thương mại dẫn tới các lục địa khác đã bị các quốc gia phương Tây kiểm soát mà trong khu vực thương mại truyền thống của Trung Quốc ở khu vực Tây Thái Bình Dương, người Trung Quốc đã phải đối mặt với những thách thức mạnh mẽ bởi những người phương Tây, những người đã mở rộng ảnh hưởng của mình và giành lấy lợi nhuận thương mại bằng đại bác và gươm. Nhưng thậm chí ngay cả trong tình huống này, nếu triều Minh sử dụng sức mạnh quốc gia để cạnh tranh với các quốc gia phương Tây vẫn có thể làm được nhiều điều cho lợi ích thương mại của Trung Quốc ít nhất là ở châu Á bởi vì nó vẫn có sức mạnh trong khu vực cả ở quân sự và kinh không may, nhà Minh không làm điều đó. Nhà Minh vẫn không hiểu tín hiệu thay đổi bên ngoài thế giới và thực thi chính sách thích hợp. Việc bãi bỏ lệnh cấm biển và cho phép mọi người đi ra nước ngoài chỉ là do nó không thể ngăn cản mọi người làm vậy chứ không phải là nó khuyến khích mọi người đi ra ngoài. Trái lại, nó đã đặt tất cả các chướng ngại trên con đường trước khi người dân ra nước ngoài và mở cửa thị trường. Do thiếu sự hậu thuẫn của nhà nước, các thương nhân Trung Hoa đã không thể cạnh tranh với thương nhân phương Tây ở thị trường ngoài nước bằng đôi chân bình đẳng, thứ đã gây trở ngại cho sự phát triển của thương mại Trung Quốc trong thời kì đó. Sản phẩm của Trung Quốc đã có mặt trên thị trường thế giới sau đó nhưng bởi vì tất cả các con đường thương mại dẫn tới thị trường bên ngoài Tây Thái Bình Dương đã bị kiểm soát bởi các quốc gia phương Tây, thương nhân Trung Quốc đã phải giới hạn các hoạt động của họ trong khu vực buôn bán truyền thống, những gì mà họ có được trong tình huống này thực chất không thể sánh được với những gì thương nhân phương Tây có cho dù những gì mà thương nhân phương Tây làm lúc đó cũng chỉ là chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Thậm chí trong khu vực buôn bán truyền thống, người Trung Quốc cũng ở vị trí không mấy dễ chịu, bởi vì những người mà họ buôn bán với giờ đây không phải là các cá nhân riêng lẻ như bản thân họ mà đằng sau các thương nhân đó còn có sức mạnh quyền lực nhà nước. Các quốc gia phương Tây ở thời điểm đó đã chiếm hết thuộc địa này tới thuộc địa khác trong khu vực buôn bán truyền thống của Trung Quốc ở châu Á và đã kiểm soát gần như tất cả các thị trường chính ở đó, bên cạnh đó, họ tiến hành buôn bán không phải chỉ bằng các phương tiện kinh tế mà bằng lực lượng quân đội và chính trị. Trong tình huống này, rõ ràng rằng những người Trung Quốc đi ra nước ngoài, những người không có gì trong tay ngoại trừ hàng hóa cần thiết cho thị trường trên khắp thế giới, không thể làm gì hơn trong cạnh tranh với các quốc gia phương Tây mặc dù họ mang lại cho quốc gia một số lượng bạc lớn hàng năm thứ thực sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế thương mại của Trung Quốc trong suốt thời kì cuối nhà thời gian đầu thời Thanh, xét toàn cục thì Trung Quốc đã tụt hậu đằng sau các quốc gia phương Tây tiên tiến một cách từ từ. Nhưng bởi nó vẫn là một quốc gia mạnh trên thế giới đi kèm với tầm vóc và sức mạnh quốc gia tổng hợp, vẫn còn có những cơ hội để nó có thể đuổi kịp phương Tây. Cơ hội quý giá nhất diễn ra vào cuối thể kỉ 17 khi các nước thực dân già như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha suy sụp, Hà Lan cũng đã trải qua thời hoàng kim trên biển và kể từ khi các hoạt động thực dân của nó chủ yếu diễn ra ở Ấn độ và vùng lân cận, nó đã không còn là lực lượng chính trên biển ở Đông Á; trong khi Anh với tư cách là thực dân trẻ chưa đủ trưởng thành và đang lúng túng với các vấn đề trong nước sau cách mạng, thứ đã khiến Anh không thể mở rộng ảnh hưởng bằng tất cả sức mạnh nó có cho tới thế kỉ 18. Trong tình hình quốc tế thuận lợi như thế, nếu triều Thanh có kế hoạch chủ động và tiến hành các hoạt động trên biển và ủng hộ nghiêm túc đối với ngoại thương và tiến hành cải cách hiệu quả hệ thống trong nước để phát triển và đuổi kịp các nước phương Tây đặc biệt trong quân sự và khoa học kĩ thuật, số phận của Trung Quốc có thể sẽ không giống như những gì diễn ra trong lịch sử sau cơ hội này cuối cùng cũng tuột khỏi tay Trung Quốc. Trong những thập kỉ đầu tiên sau khi triều Thanh Mãn Châu thiết lập sức mạnh chính trị quốc gia vào năm 1644, do triều đại mới phải tập trung nỗ lực vào việc thống nhất quốc gia và giải quyết hàng loạt các vấn đề trong nước để tăng cường sự cai trị, nó không chỉ không thể làm gì trên biển mà còn phải ban hành lệnh cấm biển để cắt đứt sợi dây liên hệ giữa các lực lượng phản Thanh trên biển và lục địa. Khi thời kì này chấm dứt với sự thất bại của lực lượng phản Thanh họ Trịnh ở Đài Loan năm 1683, lẽ ra nó đã là cơ hội quý báu cho nhà Thanh lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động trên biển khi Mãn Châu đã củng cố được vương triều trên toàn bộ đất nước và nền kinh tế trong nước đã phục hồi khỏi những tàn phá của chiến tranh và đang trở thành phát đạt, thịnh vượng từng ngày. Tuy nhiên nhà Thanh đã không có bất cứ sự chú tâm và làm bất cứ thứ gì trong lĩnh vực này ngoại trừ dỡ bỏ lệnh cấm trên biển ngay sau khi tái chiếm Đài Loan. Hoàng đế Khang Hi là một trong những ông vua có tầm nhìn và hoàn hảo nhất trong lịch sử, người đã làm rất nhiều trong việc bảo vệ sự thống nhất chính trị và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như góp phần làm cho nền kinh tế phát triển. Ông đánh bại tất cả các quan điểm chống đối để đưa ra quyết định tiếp tục giữ lấy Đài Loan cho Trung Quốc sau khi tái chiếm nó và đổi chính sách cấm biển của vua cha. Đây là những thứ tốt đẹp ông đã làm. Nhưng ông ta chưa bao giờ thực sự nhìn về biển và nghĩ tới việc lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu một con đường phát triển mới thông qua tham gia chiến tranh thương mại biển với các quốc gia phương Tây. Ông ta thậm chí chưa bao giờ xây dựng lực lượng hải quân thực sự thứ có thể phòng thủ bờ biển Trung Quốc; thứ ông dùng để bảo vệ bờ biển trải dài của Trung Quốc là các khẩu pháo tại các cảng biển và một số lượng nhỏ lục quân tại các pháo đài ở đó. Ông là người có hiểu biết về phương Tây hơn bất cứ ông vua nào trong lịch sử và đã nhận ra rằng mối nguy hiểm tương lai đối với Trung Quốc sẽ đến từ phương Tây nhưng ông đã không thực thi bất cứ một biện pháp tích cực nào để giải quyết tình hình. Thái độ và chính sách của trong việc giải quyết mối nguy hiểm từ thế giới bên ngoài thực sự khác với các ông vua trước, đó là đóng cửa để giữ họ ở bên ngoài. Do lối tư duy bảo thủ và tiêu cực này, cũng như trạng thái tâm lý cảnh giác sâu sắc đối với những lực lượng nổi dậy người Hán, ông ta đã không chỉ chưa bao giờ có bất cứ sự hỗ trợ nào đối với những người đi ra nước ngoài mà trái lại đã đặt tất cả họ dưới sự giám sát như cấm người dân đóng các con thuyền đi biển lớn, không cho phép họ mang vũ khí thậm chí là vũ khí để họ tự vệ, cấm họ sống ở nước ngoài và cuối cùng ông ta đã ra lệnh cấm người dân đi tới biển nam trong những năm sau đó thứ đã gây hại lớn cho sự phát triển ngoại thương của Trung ở vào thời điểm chính sách thương mại trên biển của nhà Thanh trở nên ngày một bảo thủ, thứ cuối cùng đã dẫn tới sự cô lập hoàn toàn của Trung Quốc dưới triều vua Càn Long, những sự thay đổi mới đã diễn ra bên ngoài thế giới. Từ thế kỉ 18, nước Anh với tư cách là đế quốc biển mới nổi lên thay thế cho Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan trên thế giới. Nước Anh đã hoàn thành công cuộc tích lũy tư bản nguyên thủy trong nửa đầu thế kỉ 18. Sau đó ở nửa sau của thế kỉ với vị trí đứng đầu thế giới nó bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành công trường của thế giới vào đầu thế kỉ 19. Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi hoàn toàn cán cân sức mạnh giữa Trung Quốc và phương Tây, bỏ Trung Quốc xa ở phía sau các nước phương Tây tiên tiến. Từ đó đuổi kịp phương Tây và tìm kiếm quyền lực tối cao trên biển đối với Trung Quốc đã trở nên ngày càng khó nếu như không muốn nói là không triều đình nhà Thanh thậm chí tại thời điểm đó vẫn tỏ ra ngu dốt và hợm hĩnh trong giấc mơ ngu ngốc rằng Thiên triều là số một trên thế giới. Khi phái đoàn ngoại giao do huân tước Macarthney đến Trung Quốc vào năm 1793, phái đoàn vẫn được đối xử giống như các đoàn sứ thần triều cống. Hoàng đế Càn Long thậm chí không có hứng thú nhìn qua món quà mà họ mang tới, thứ thể hiện sức mạnh về khoa học và công nghệ tiên tiến cũng như lực lượng quân đội của nước Anh lúc đó. Hoàng đế Càn Long không biết rằng tình thế mạnh-yếu giữa phương Đông và phương Tây đang thay đổi đột ngột và thời kì hoàng kim của Thiên triều đã gần như khép lại. Có một chút khả năng rằng Trung Quốc có thể đuổi kịp phương Tây với tốc độ nhanh hơn nhưng nó đã chọn xu hướng tự đóng cửa và làm ngơ đối với thế giới bên ngoài. Lịch sử đã không lay chuyển được. Sự hèn mọn của quốc gia trong chiến tranh thuốc phiện và những thảm họa mà người Trung Quốc chịu đựng trong hơn 100 năm chính là kết quả của chính sách ngoại giao bảo thủ mà các vua triều Minh và Thanh, những người ngoảnh mặt trước trào lưu của thế giới thực bài đăng
Trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đua nhau nhòm ngó, xâm lược Trung Quốc thì nhà Thanh đã thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”. Chính sách đó không những không hạn chế được việc thương nhân châu Âu đưa hàng lậu vào Trung Quốc mà còn gây nên cuộc xung đột kịch liệt, dẫn đến sự suy sụp của chế độ phong kiến Trung Quốc. Vậy đáp án đúng là A.
chính sách của nhà thanh